97. Chương 97: Kinh Dhànanjàni – MN 97: To Dhananjani – Song ngữ

Majjhima Nikaya – Middle-length Discourses of the Buddha

Trung Bộ Kinh

Anh ngữ: Bhikkhu Ñāṇamoli      

Việt ngữ: Hòa thượng Thích Minh Châu

Compile: Lotus group

Part II – Majjhima Nikaya – Middle Length Discourses – Trung Bộ Kinh

Chương 97: Kinh Dhànanjàni – MN 97: To Dhananjani – (Dhànanjàni sutta)

 

  1. Thus have I heard:

On one occasion the Blessed One was living at Rajagaha in the Bamboo Grove, the Squirrels’ Sanctuary.

Tôi nghe như vầy: 

Một thời Thế Tôn ở tại Rajagaha (Vương Xá), Veluvana (Trúc Lâm), tại Kalandakanivapa (chỗ nuôi dưỡng sóc). 

  1. Now on that occasion the venerable Sariputta was wandering in the Southern Hills with a large Sangha of bhikkhus. Then a certain [185] bhikkhu who had spent the Rains at Rajagaha went to the venerable Sariputta in the Southern Hills and exchanged greetings with him. When this courteous and amiable talk was finished, he sat down at one side and the venerable Sariputta asked him:

–“Is the Blessed One well and strong, friend?”

–“The Blessed One is well and strong, friend.”

–“Is the Sangha of bhikkhus well and strong, friend?”

–“The Sangha of bhikkhus too is well and strong, friend.”

–“Friend, there is a Brahmin named Dhananjani living in Rajagaha at the Tandulapala Gate. Is that Brahmin Dhananjani well and strong?”

“That Brahmin Dhananjani too is well and strong, friend.”

–“Is he diligent, friend?”

–“How could he be diligent, friend? He plunders Brahmin householders in the name of the king, and he plunders the king in the name of the Brahmin householders. His wife, who had faith and came from a clan with faith, has died and he has taken another wife, a woman without faith who comes from a clan without faith.”

–“This is bad news that we hear, friend. It is bad news indeed to hear that the Brahmin Dhananjani has become negligent. Perhaps sometime or other we might meet the Brahmin Dhananjani and have some conversation with him.”

Lúc bấy giờ, Tôn giả Sariputta đang du hành tại Dakkhinagiri (Nam Sơn) cùng với đại chúng Tỷ-kheo. Một vị Tỷ-kheo sau khi an cư mùa mưa ở Rajagaha (Vương Xá) đi đến Dakkhinagiri đi đến Tôn giả Sariputta, sau khi đến nói lên với Tôn giả Sariputta, những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên. Rồi Tôn giả Sariputta nói với vị Tỷ-kheo ấy đang ngồi một bên: 

— Này Hiền giả, Thế Tôn có được không bệnh, mạnh khỏe không? 

— Thưa Hiền giả, Thế Tôn không bệnh và được mạnh khỏe. 

— Thưa Hiền giả, còn chúng Tỷ-kheo có được không bệnh và mạnh khỏe không? 

— Thưa Hiền giả, chúng Tỷ-kheo cũng không bệnh và được mạnh khỏe. 

— Ở đây, này Hiền giả, có Bà-la-môn tên là Dhananjani ở tại Tandulapala. Này Hiền giả, Bà-la-môn Dhananjani có được không bệnh và mạnh khỏe không? 

— Thưa Hiền giả, Bà-la-môn Dhananjani cũng không bệnh và được mạnh khỏe. 

— Này Hiền giả, Bà-la-môn Dhanajani có được không phóng dật không? 

— Thưa Hiền giả, làm sao Bà-la-môn Dhannajani có thể không phóng dật được! Thưa Hiền giả, Bà-la-môn Dhananjani ỷ thế vua, bóc lột các Bà-la-môn gia chủ, ỷ thế các Bà-la-môn gia chủ, bóc lột vua. Người vợ trước của Bà-la-môn có thành tín, cưới từ một gia đình có thành tín đã từ trần. Người vợ sau không có thành tín và cưới từ một gia đình không có thành tín. 

— Này Hiền giả, thật là một tin không tốt lành! Này Hiền giả, thật là một tin không tốt lành khi chúng ta được nghe Bà-la-môn Dhananjani phóng dật. Rất có thể chúng ta có dịp gặp Bà-la-môn Dhananjani, rất có thể sẽ có một cuộc đàm thoại. 

 

  1. Then, having stayed in the Southern Hills as long as he chose, the venerable Sariputta set out to wander towards Rajagaha. Wandering by stages he eventually arrived at Rajagaha, and there he lived in the Bamboo Grove, the Squirrels’ Sanctuary.

Rồi Tôn giả Sariputta sau khi ở tại Dakkhinagiri cho đến khi vừa ý, liền khởi hành đi Rajagaha (Vương Xá), tuần tự du hành và đến tại Vương Xá. Ở đây, Tôn giả Sariputta trú ở Rajagaha, Veluvana, tại Kalandakanivapa. 

 

  1. Then, when it was morning, the venerable Sariputta dressed, and taking his bowl and outer robe, went into Rajagaha for alms. [186] Now at that time the Brahmin Dhananjani was having his cows milked in a cowshed outside the city. So when the venerable Sariputta had wandered for alms in Rajagaha and had returned from his alms round, after his meal he went to the Brahmin Dhananjani. The Brahmin Dhananjani saw the venerable Sariputta coming in the distance, and he went to him and said: –“Drink some of this fresh milk, Master Sariputta, until it is time for the meal.”

–“Enough, Brahmin, I have finished my meal for today. I shall be at the root of that tree for the day’s abiding. You may come there.”

–“Yes, sir,” he replied.

Rồi Tôn giả Sariputta đắp y vào buổi sáng, cầm y bát, đi vào Vương Xá để khất thực. Lúc bấy giờ Bà-la-môn Dhananjani đang cho vắt sữa bò ở ngoài thành. Tôn giả Sariputta sau khi khất thực ở Vương Xá xong, sau buổi ăn, trên con đường khất thực trở về, đi đến Bà-la-môn Dhananjani. Bà-la-môn Dhananjani thấy Tôn giả Sariputta từ xa đi tới, sau khi thấy, liền đi đến Tôn giả Sariputta, sau khi đến liền thưa với Tôn giả Sariputta: 

— Hãy uống sữa này và chờ cho đến giờ ăn cơm. 

— Thôi vừa rồi, Bà-la-môn. Hôm nay ta đã ăn xong. Ta sẽ ngồi nghĩ trưa ở một góc cây. Ông có thể đến đó. 

— Thưa vâng, Tôn giả. 

 

  1. And then, after he had eaten his morning meal, the Brahmin Dhananjani went to the venerable Sariputta and exchanged greetings with him. When this courteous and amiable talk was finished, he sat down at one side and the venerable Sariputta asked him:

–“Are you diligent, Dhananjani?”

–“How can we be diligent, Master Sariputta, when we have to support our parents, our wife and children, and our slaves, servants, and workers; when we have to do our duty towards our friends and companions, towards our kinsmen and relatives, towards our guests, towards our departed ancestors, towards the deities, and towards the king; and when this body must also be refreshed and nourished?”

Bà-la-môn Dhananjani vâng đáp Tôn giả Sariputta. Rồi Bà-la-môn Dhananjani sau khi ăn sáng xong, liền đi đến Tôn giả Sariputta, sau khi đến nói lên với Tôn giả Sariputta những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên. Tôn giả Sariputta nói với Bà-la-môn Dhananjani đang ngồi một bên: 

— Này Dhananjani, ông có không phóng dật không? 

— Thưa Tôn giả Sariputta, làm sao chúng tôi có thể không phóng dật được, khi chúng tôi còn cha mẹ phải phụng dưỡng, còn vợ con phải nuôi dưỡng, còn đầy tớ, lao công phải nuôi dưỡng, còn có những trách nhiệm bạn bè thân hữu phải làm đối với bạn bè thân hữu, còn có những trách nhiệm bà con huyết thống phải làm đối với bà con huyết thống, còn có những trách nhiệm tân khách phải làm đối với tân khách, còn có những trách nhiệm tổ tiên phải làm đối với tổ tiên, còn có những trách nhiệm Thiên thần phải làm đối với Thiên thần, còn có những trách nhiệm vua chúa phải làm đối với vua chúa, lại còn thân này cần phải làm cho thỏa mãn và trưởng dưỡng! 

 

  1. “What do you think, Dhananjani? Suppose someone here were to behave contrary to the Dhamma, to behave unrighteous for the sake of his parents, and then because of such behavior the wardens of hell were to drag him off to hell. Would he be able [to free himself by pleading thus]: ‘It was for the sake of my parents that I behaved contrary to the Dhamma that I behaved unrighteous, so let not the wardens of hell [drag me off] to hell’? [187] Or would his parents be able [to free him by pleading thus]: ‘It was for our sake that he behaved contrary to the Dhamma, that he behaved unrighteous, so let not the wardens of hell [drag him off] to hell’?”

–“No, Master Sariputta. Even while he was crying out, the wardens of hell would fling him into hell.”

— Này Dhananjani, Ông nghĩ thế nào? Ở đây, có người vì cha mẹ làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh. Do nhân duyên làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh, các địa ngục quân kéo người ấy đến địa ngục. Người ấy làm được gì khi nói”.Tôi vì cha mẹ đã làm các điều phi pháp, đã làm các điều bất chánh. Chớ có để các địa ngục quân kéo tôi đến địa ngục”? Hay cha mẹ của người ấy làm được gì khi nói: “Con chúng tôi vì cha mẹ đã làm các điều phi pháp, đã làm các điều bất chánh. Chớ có để các địa ngục quân kéo nó đến địa ngục”? 

— Thưa không được, Tôn giả Sariputta. Các địa ngục quân vẫn quăng người ấy xuống địa ngục, dầu người ấy có khóc than. 

 

7-15. “What do you think, Dhananjani? Suppose someone here were to behave contrary to the Dhamma, to behave unrighteous for the sake of his wife and children … for the sake of his slaves, servants, and workers … for the sake of his friends and companions … for the sake of his kinsmen and relatives … for the sake of his guests … [188] for the sake of his departed ancestors.. .for the sake of the deities … for the sake of the king … for the sake of refreshing and nourishing this body, and because of such behavior the wardens of hell were to drag him off to hell. Would he be able [to free himself by pleading thus]: ‘It was for the sake of refreshing and nourishing this body that I behaved contrary to the Dhamma, that I behaved unrighteous, so let not the wardens of hell [drag me off] to hell’? Or would others be able [to free him by pleading thus]: ‘It was for the sake of refreshing and nourishing this body that he behaved contrary to the Dhamma, that he behaved unrighteous, so let not the wardens of hell [drag him off] to hell’?”

–“No, Master Sariputta. Even while he was crying out, the wardens of hell would fling him into hell.”

— Này Dhananjani, Ông nghĩ thế nào? Ở đây, có người vì vợ con làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh. Do nhân duyên làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh, các địa ngục quân kéo người ấy đến địa ngục. Người ấy làm được gì khi nói: “Tôi vì vợ con đã làm các điều phi pháp, đã làm điều bất chánh. Chớ có để các địa ngục quân kéo tôi đến địa ngục”? Hay vợ con người ấy có làm được gì khi nói: ” (Chồng, cha tôi) vì chúng tôi đã làm các điều phi pháp, đã làm các điều bất chánh. Chớ có để các địa ngục quân kéo (chồng, cha tôi) đến địa ngục”? 

— Thưa không được, Tôn giả Sariputta. Các địa ngục quân vẫn quăng người ấy xuống địa ngục, dầu người ấy có khóc than. 

— Này Dhananjani, Ông nghĩ thế nào? Ở đây, có người vì đầy tớ lao công làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh. Do nhân duyên làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh, các địa ngục quân kéo người ấy đến địa ngục. Người ấy làm được gì khó nói: “Tôi vì các đầy tớ lao công đã làm các điều phi pháp, đã làm các điều bất chánh. Chớ có để các địa ngục quân kéo tôi đến địa ngục”? Hay các đầy tớ lao công có làm được gì khi nói: ” (Chủ chúng tôi) vì chúng tôi đã làm các điều phi pháp, đã làm các điều bất chánh. Chớ có để các địa ngục quân kéo (chủ chúng tôi) đến địa ngục”? 

— Thưa không được, Tôn giả Sariputta. Các địa ngục quân vẫn quăng người ấy xuống địa ngục, dầu người ấy có khóc than. 

— Này Dhananjani, Ông nghĩ thế nào? Ở đây, có người vì bạn bè thân hữu… dầu người ấy có khóc than. 

Này Dhananjani, Ông nghĩ thế nào? Ở đây, có người vì các tân khách… dầu người ấy có khóc than. 

Này Dhananjani, Ông nghĩ thế nào? Ở đây, có người vi tổ tiên… dầu người ấy có khóc than. 

Này Dhananjani, Ông nghĩ thế nào? Ở đây, có người vì chư Thiên … dầu người ấy có khóc than. 

Này Dhananjani, Ông nghĩ thế nào? Ở đây, có người vì vua chúa… dầu người ấy có khóc than. 

Này Dhananjani, Ông nghĩ thế nào? Ở đây, có người vì làm cho thỏa mãn, vì trưởng dưỡng cái thân làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh. Do nhân duyên làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh này, các địa ngục quân kéo người ấy đến địa ngục. Người ấy làm được gì khi người ấy nói: “Vì làm cho thỏa mãn, vì trưởng dưỡng cái thân, tôi đã làm các điều phi pháp, đã làm ra các điều bất chánh này. Chớ có để các địa ngục quân kéo tôi đến địa ngục”? Hay các người khác có làm được gì khi họ nói: “Vì làm cho thỏa mãn, vì trưởng dưỡng cái thân, người này làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh này. Chớ có để các địa ngục quân kéo nó đến địa ngục”? 

— Thưa không được, Tôn giả Sariputta. Các địa ngục quân vẫn quăng người ấy xuống địa ngục, dầu người ấy có khóc than. 

 

  1. “What do you think, Dhananjani? Who is the better, one who for the sake of his parents behaves contrary to the Dhamma, behaves unrighteous, or one who for the sake of his parents behaves according to the Dhamma, behaves righteously?”

–“Master Sariputta, the one who for the sake of his parents behaves contrary to the Dhamma, behaves unrighteous, is not the better; the one who for the sake of his parents behaves according to the Dhamma, behaves righteously, is the better.”

–“Dhananjani, there are other kinds of work, profitable and in accordance with the Dhamma, by means of which one can support one’s parents and at the same time both avoid doing evil and practice merit.

— Này Dhananjani, Ông nghĩ thế nào? Một người vì cha mẹ làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh, hay một người vì cha mẹ làm các điều đúng pháp, làm các điều chơn chánh, ai tốt đẹp hơn? 

— Thưa Tôn giả Sariputta, người vì cha mẹ làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh, người ấy không tốt đẹp hơn. Và thưa Tôn giả Sariputta, người vì cha mẹ làm các điều đúng pháp, làm các điều chơn chánh, người ấy tốt đẹp hơn. Thưa Tôn giả Sariputta, hành trì đúng pháp, hành trì chơn chánh tốt đẹp hơn hành trì phi pháp, hành trì bất chánh. 

— Này Dhananjani, có những hành động khác có nhân, đúng pháp, với những hành động này có thể phụng dưỡng cha mẹ, không làm các điều ác, làm được các thiện hành.

 

17-25. “What do you think, Dhananjani? Who is the better, one who for the sake of his wife and children … [189] … for the sake of his slaves, servants, and workers … for the sake of his friends and companions … [190] … for the sake of his kinsmen and relatives … for the sake of his guests … for the sake of his departed ancestors … for the sake of the deities … [191] … for the sake of the king … for the sake of refreshing and nourishing this body behaves contrary to the Dhamma, behaves unrighteously, or one who for the sake of refreshing and nourishing this body behaves according to the Dhamma, behaves righteously?”

–“Master Sariputta, the one who for the sake of refreshing and nourishing this body behaves contrary to the Dhamma, behaves unrighteously, is not the better; the one who for the sake of refreshing and nourishing this body behaves according to the Dhamma, behaves righteously, is the better.”

–“Dhananjani, there are other kinds of work, profitable and in accordance with the Dhamma, by means of which one can refresh and nourish this body and at the same time both avoid doing evil and practice merit.”

Này Dhananjani, Ông nghĩ thế nào? Một người vì vợ con làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh, hay một người vì vợ con, làm các điều đúng pháp, làm các điều chơn chánh, ai tốt đẹp hơn? 

— Thưa Tôn giả Sariputta, một người vì vợ con làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh, người ấy không tốt đẹp hơn. Và thưa Tôn giả Sariputta, một người vì vợ con làm các điều đúng pháp, làm các điều chơn chánh, người ấy tốt đẹp hơn. Thưa Tôn giả Sariputta, hành trì đúng pháp, hành trì chơn chánh tốt đẹp hơn hành trì phi pháp, hành trì bất chánh. 

— Này Dhananjani, có những hành động khác có nhân, đúng pháp, với những hành động này có thể nuôi dưỡng vợ con, không làm các điều ác, làm được các thiện hành. Này Dhananjani, Ông nghĩ thế nào? Một người vì đầy tớ lao công làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh, hay một người vì đầy tớ lao công làm các điều đúng pháp, làm các điều chơn chánh, ai tốt đẹp hơn? 

— Thưa Tôn giả Sariputta, người vì đầy tớ lao công làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh, người ấy không tốt đẹp hơn. Và thưa Tôn giả Sariputta, người vì đầy tớ lao công làm các điều đúng pháp, làm các điều chơn chánh, người ấy tốt đẹp hơn. Thưa Tôn giả Sariputta, hành trì đúng pháp, hành trì chơn chánh tốt đẹp hơn hành trì phi pháp, hành trì bất chánh. 

— Này Dhananjani, có những hành động khác có nhân, đúng pháp, với những hành động này có thể nuôi dưỡng đầy tớ lao công, không làm các điều ác, làm được các thiện hành. Này Dhananjani, Ông nghĩ thế nào? Một người vì bạn bè thân hữu làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh, hay là người vì bạn bè thân hữu làm các điều đúng pháp, làm các điều chơn chánh, ai tốt đẹp hơn? 

— Thưa Tôn giả Sariputta, người vị bạn bè thân hữu làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh, người ấy không tốt đẹp hơn. Và thưa Tôn giả Sariputta, người vì bạn bè thân hữu làm các điều đúng pháp, làm các điều chơn chánh, người ấy tốt đẹp hơn. Thưa Tôn giả Sariputta, hành trì đúng pháp, hành trì chơn chánh tốt đẹp hơn hành trì phi pháp, hành trì bất chánh. 

— Này Dhananjani, có những hành động khác có nhân, đúng pháp, với những hành động này có thể nuôi dưỡng bạn bè thân hữu, không làm các điều ác, làm được các thiện hành. Này Dhananjani, Ông nghĩ thế nào? Một người vì bà con huyết thống làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh, hay một người vì bà con huyết thống làm các điều đúng pháp, làm các điều chơn chánh, ai tốt đẹp hơn? 

— Thưa Tôn giả Sariputta, người vì bà con huyết thống làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh, người ấy không tốt đẹp hơn. Và thưa Tôn giả Sariputta, người vì bà con huyết thống làm các điều đúng pháp, làm các điều chơn chánh, người ấy tốt đẹp hơn. Thưa Tôn giả Sariputta, hành trì đúng pháp, hành trì chơn chánh tốt đẹp hơn hành trì phi pháp, hành trì bất chánh. 

— Này Dhananjani, có những hành động khác, có nhân, đúng pháp, với những hành động này có thể nuôi dưỡng bà con huyết thống, không làm các điều ác, làm được các thiện hành. Này Dhananjani, Ông nghĩ thế nào? Một người vì tân khách làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh, hay một người vì tân khách làm các điều đúng pháp, làm các điều chơn chánh, ai tốt đẹp hơn? 

— Thưa Tôn giả Sariputta, người vì tân khách làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh, người ấy không tốt đẹp hơn. Và thưa Tôn giả Sariputta, người vì tân khách làm các điều đúng pháp, làm các điều chơn chánh, người ấy tốt đẹp hơn. Thưa Tôn giả Sariputta, hành trì đúng pháp, hành trì chơn chánh tốt đẹp hơn hành trì phi pháp, hành trì bất chánh. 

— Này Dhananjani, có những hành động khác có nhân, đúng pháp, với những hành động này có thể làm các bổn phận tân khách đối với tân khách, không làm các điều ác, làm được các thiện hành. Này Dhananjani, Ông nghĩ thế nào? Một người vì tổ tiên làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh, hay người vì tổ tiên làm các điều đúng pháp, làm các điều chơn chánh, ai tốt đẹp hơn? 

— Thưa Tôn giả Sariputta, người vì tổ tiên làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh, người ấy không tốt đẹp hơn. Và thưa Tôn giả Sariputta, người vì tổ tiên làm các điều đúng pháp, làm các điều chơn chánh, người ấy tốt đẹp hơn. Thưa Tôn giả Sariputta, hành trì đúng pháp, hành trì chơn chánh tốt đẹp hơn hành trì phi pháp, hành trì bất chánh. 

— Này Dhananjani, có những hành động khác có nhân, đúng pháp, với những hành động này có thể làm được những trách nhiệm tổ tiên phải làm đối với các tổ tiên, không làm các điều ác, làm được các thiện hành. Này Dhananjani, Ông nghĩ thế nào? Một người vì chư Thiên làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh, hay người vì chư Thiên làm các điều đúng pháp, làm các điều chơn chánh, ai tốt đẹp hơn? 

— Thưa Tôn giả Sariputta, người vì chư Thiên làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh, người ấy không tốt đẹp hơn. Và thưa Tôn giả Sariputta, người vì chư Thiên làm các điều đúng pháp, làm các điều chơn chánh, người ấy tốt đẹp hơn. Thưa Tôn giả Sariputta, hành trì đúng pháp, hành trì chơn chánh tốt đẹp hơn hành trì phi pháp, hành trì bất chánh. 

— Này Dhananjani, có những hành động khác có nhân, đúng pháp, với những hành động này có thể làm được các trách nhiệm chư Thiên, phải làm đối với chư Thiên, không làm các điều ác, làm được các thiện hành. Này Dhananjani, Ông nghĩ thế nào? Người vì vua chúa làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh, hay người vì vua chúa làm các điều đúng pháp, làm các điều chơn chánh, ai tốt đẹp hơn? 

— Thưa Tôn giả Sariputta, người vì vua chúa làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh, người ấy không tốt đẹp hơn. Và thưa Tôn giả Sariputta, người vì vua chúa làm các điều đúng pháp, làm các điều chơn chánh, người ấy tốt đẹp hơn. Thưa Tôn giả Sariputta, hành trì đúng pháp, hành trì chơn chánh tốt đẹp hơn hành trì phi pháp, hành trì bất chánh. 

— Này Dhananjani, có những hành động khác có nhân, đúng pháp, có thể làm các trách nhiệm vua chúa phải làm đối với vua chúa, không làm các điều ác, làm được các thiện hành. Này Dhananjani, Ông nghĩ thế nào? Người vì làm thỏa mãn, vì trưởng dưỡng cái thân làm điều phi pháp, làm các điều bất chánh, hay là người vì làm thỏa mãn, vì trưởng dưỡng cái thân, làm các điều đúng pháp, làm các điều chơn chánh, ai tốt đẹp hơn? 

— Thưa Tôn giả Sariputta, người vì làm thỏa mãn, vì trưởng dưỡng cái thân làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh, người ấy không tốt đẹp hơn. Và thưa Tôn giả Sariputta, người vì làm thỏa mãn, vì trưởng dưỡng cái thân làm các điều đúng pháp, làm các điều chơn chánh, người ấy tốt đẹp hơn. Thưa Tôn giả Sariputta, hành trì đúng pháp, hành trì chơn chánh tốt đẹp hơn hành trì phi pháp, hành trì bất chánh. 

— Này Dhananjani, có những hành động khác có nhân, đúng pháp, với những hành động này có thể làm thỏa mãn, trưởng dưỡng cái thân, không làm các điều ác, làm được các thiện hành. 

 

  1. Then the Brahmin Dhananjani, having delighted and rejoiced in the venerable Sariputta’s words, rose from his seat and departed.

Bà-la-môn Dhananjani hoan hỷ tín thọ lời Tôn giả Sariputta dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi. 

 

  1. On a later occasion the Brahmin Dhananjani became afflicted, suffering, and gravely ill. Then he told a man:

–“Come, good man, [192] go to the Blessed One, pay homage in my name with your head at his feet, and say: ‘Venerable sir, the Brahmin Dhananjani is afflicted, suffering, and gravely ill; he pays homage with his head at the Blessed One’s feet.’ Then go to the venerable Sariputta, pay homage in my name with your head at his feet, and say: ‘Venerable sir, the Brahmin Dhananjani is afflicted, suffering, and gravely ill; he pays homage with his head at the venerable Sariputta’s feet.’ Then say thus: ‘It would be good, venerable sir, if the venerable Sariputta would come to the house of the Brahmin Dhananjani, out of compassion.’“

–“Yes, venerable sir,” the man replied, and he went to the Blessed One, and after paying homage to the Blessed One, he sat down at one side and delivered his message. Then he went to the venerable Sariputta and after paying homage to the venerable Sariputta, he delivered his message, saying:

–“It would be good, venerable sir, if the venerable Sariputta would come to the residence of the Brahmin Dhananjani, out of compassion.” The venerable Sariputta consented in silence.

Bà-la-môn Dhananjani sau một thời gian bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh. Rồi Bà-la-môn Dhananjani cho gọi một người khác: 

— Ông hãy đi đến Thế Tôn, sau khi đến, hãy nhân danh ta cúi đầu đảnh lễ chân thế Tôn và thưa: “Bạch Thế Tôn, Bà-la-môn Dhananjani bị bệnh, khổ đau, bị bạo bệnh, xin cúi đầu đảnh lễ Thế Tôn”. Rồi Ông đi đến Tôn giả Sariputta, sau khi đến, hãy nhân danh ta cúi đầu đảnh lễ Tôn giả Sariputta, và thưa: “Thưa Tôn giả Sariputta, Bà-la-môn Dhananjani bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh, cúi đầu đảnh lễ Tôn giả Sariputta và thưa: “Tôn giả, lành thay nếu Tôn giả Sariputta đi đến trú xá của Bà-la-môn Dhananjani”.

— Thưa vâng, Tôn giả. 

Người ấy vâng theo lời Bà-la-môn Dhananjani, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ chân Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, người ấy bạch Thế Tôn: 

— Bạch Thế Tôn, Bà-la-môn Dhananjani bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh, cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn. 

Rồi đi đến Tôn giả Sariputta, sau khi đến đảnh lễ Tôn giả Sariputta rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, người ấy thưa với Tôn giả Sariputta: 

— Thưa Tôn giả, Bà-la-môn Dhananjani bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh, cúi đầu đảnh lễ Tôn giả Sariputta và thưa: “Thưa tôn giả, lành thay nếu Tôn giả Sariputta vì lòng từ bi thương xót, đi đến trú xá của Bà-la-môn Dhananjani”.

Tôn giả Sariputta im lặng nhận lời.

 

  1. Then the venerable Sariputta dressed, and taking his bowl and outer robe, he went to the residence of the Brahmin Dhananjani, sat down on a seat made ready, and said to the Brahmin Dhananjani:

–“I hope you are getting well, Brahmin, I hope you are comfortable. I hope your painful feelings are subsiding and not increasing, and that their subsiding, not their increase, is apparent.”

Rồi Tôn giả Sariputta đắp y, cầm y bát đi đến trú xá Bà-la-môn Dhananjani, sau khi đến, liền ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi, Tôn giả Sariputta hỏi Bà-la-môn Dhananjani: 

— Ta mong, này Dhananjani, Ông có thể kham nhẫn; ta mong Ông có thể chịu đựng; ta mong khổ thọ được giảm thiểu, không có gia tăng, và sự giảm thiểu được rõ rệt, không có gia tăng! 

 

  1. “Master Sariputta, I am not getting well, I am not comfortable. My painful feelings are increasing, not subsiding; their increase and not their subsiding is apparent. Just as if [193] a strong man were splitting my head open with a sharp sword, so too, violent winds cut through my head. I am not getting well … Just as if a strong man were tightening a tough leather strap around my head as a headband, so too, there are violent pains in my head. I am not getting well … Just as if a skilled butcher or his apprentice were to carve up an ox’s belly with a sharp butcher’s knife, so too, violent winds are carving up my belly. I am not getting well … Just as if two strong men were to seize a weaker man by both arms and roast him over a pit of hot coals, so too, there is a violent burning in my body. I am not getting well, I am not comfortable. My painful feelings are increasing, not subsiding; their increase and not their subsiding is apparent.”

— Thưa Tôn giả Sariputta, tôi không có thể kham nhẫn, tôi không có thể chịu đựng. Sự khổ thống của tôi gia tăng, không có giảm thiểu. Và sự gia tăng được rõ rệt, không có giảm thiểu. Thưa Tôn giả Sariputta, ví như một người lực sĩ chém đầu (một người khác) với một thanh kiếm sắc bén; cũng vậy, thưa Tôn giả Sariputta, những ngọn gió kinh khủng thổi lên đau nhói trong đầu tôi. Thưa Tôn giả Sariputta, tôi không có thể kham nhẫn, tôi không có thể chịu đựng. Những khổ thống của tôi gia tăng, không có giảm thiểu, sự gia tăng được rõ rệt, không có giảm thiểu. Thưa Tôn giả Sariputta, như một người lực sĩ lấy một dây nịt bằng da cứng quấn tròn quanh đầu rồi siết chặt; cung vậy, thưa Tôn giả Sariputta, tôi bị cảm đau đầu một cách kinh khủng. Thưa Tôn giả Sariputta, tôi không có thể kham nhẫn, tôi không có thể chịu đựng. Những khổ thống của tôi gia tăng, không có giảm thiểu, sự gia tăng được rõ rệt, không có giảm thiểu. Thưa Tôn giả Sariputta, như một người đồ tể thiện xảo hay đệ tử người đồ tể cắt ngang bụng với con dao cắt thịt bò sắc bén; cũng vậy, thưa Tôn giả Sariputta, một ngọn gió kinh khủng cắt ngang bụng của tôi. Thưa Tôn giả Sariputta, tôi không có thể kham nhẫn, tôi không có thể chịu đựng. Những thống khổ của tôi gia tăng, không có giảm thiểu, sự gia tăng được rõ rệt, không có giảm thiểu. Thưa Tôn giả Sariputta, ví như hai người lực sĩ, sau khi nắm cánh tay của một người yếu hơn, nướng người ấy, đốt người ấy trên một hố than hừng; cũng vậy, thưa Tổn giả Sariputta, một sức nóng kinh khủng khởi lên trong thân tôi. Thưa Tôn giả Sariputta, tôi không có thể kham nhẫn, tôi không có thể chịu đựng. Những khổ thống của tôi gia tăng, không có giảm thiểu, sự gia tăng được rõ rệt, không có giảm thiểu. 

 

  1. “What do you think, Dhananjani? Which is better – hell or the animal realm?” – “The animal realm, Master Sariputta.”

— “Which is better – the animal realm or the realm of ghosts?”

— “The realm of ghosts, Master Sariputta.”

— “Which is better – the realm of ghosts or the realm of human beings?” – –“Human beings, Master Sariputta.” [194]

–“Which is better – human beings or the gods of the heaven of the Four Great Kings?”

— “The gods of the heaven of the Four Great Kings, Master Sariputta.”

— “Which is better – the gods of the heaven of the Four Great Kings or the gods of the heaven of the Thirty-three?”

— “The gods of the heaven of the Thirty-three, Master Sariputta.”

–“Which is better – the gods of the heaven of the Thirty-three or the Yama gods?”

— “The Yama gods, Master Sariputta.”

— “Which is better – the Yama gods or the gods of the Tusita heaven?”

–“The gods of the Tusita heaven, Master Sariputta.”

— “Which is better – the gods of the Tusita heaven or the gods who delight in creating?”

— “The gods who delight in creating, Master Sariputta.”

— “Which is better – the gods who delight in creating or the gods who wield power over others’ creations?”

— “The gods who wield power over others’ creations, Master Sariputta.”

— Này Dhananjani, địa ngục hay bàng sanh, chỗ nào tốt hơn? 

— Thưa Tôn giả Sariputta, bàng sanh tốt hơn địa ngục. 

— Này Dhananjani, bàng sanh hay cảnh ngạ quỷ, chỗ nào tốt hơn? 

— Thưa Tôn giả Sariputta, cảnh ngạ quỷ tốt hơn bàng sanh. 

— Này Dhananjani, cảnh giới ngạ quỷ hay loài Người, chỗ nào tốt hơn? 

— Thưa Tôn giả Sariputta, loài Người tốt hơn cảnh giới ngạ quỷ. 

— Này Dhananjani, loài Người hay Tứ thiên vương thiên, chỗ nào tốt hơn? 

— Thưa Tôn giả Sariputta, Tứ thiên vương thiên tốt hơn loài Người. 

— Này Dhananjani, Tứ thiên vương thiên hay Tam thập tam thiên, chỗ nào tốt hơn? 

— Thưa Tôn giả Sariputta, Tam thập tam thiên tốt hơn Tứ thiên vương thiên. 

— Này Dhananjani, Tam thập tam thiên hay Dạ-ma Thiên, chỗ nào tốt hơn? 

— Thưa Tôn giả Sariputta, Dạ-ma thiên tốt hơn Tam thập tam thiên. 

— Này Dhananjani, Dạ-ma thiên hay Đâu-suất-đà thiên (Tusita), chỗ nào tốt hơn? 

— Thưa Tôn giả Sariputta, Đâu-Suất-đà thiên tốt hơn Dạ-ma thiên. 

— Này Dhananjani, Đâu-suất-đà thiên hay Hóa lạc thiên (Nimmanarati), chỗ nào tốt hơn? 

— Thưa Tôn giả Sariputta, Hóa lạc thiên tốt hơn Đâu-suất-đà thiên. 

— Này Dhananjani, Hóa lạc thiên hay Tha hóa tự tại thiên, chỗ nào tốt hơn? 

— Thưa Tôn giả Sariputta, Tha hóa tự tại thiên tốt hơn Hóa lạc thiên. 

 

  1. “What do you think, Dhananjani? Which is better – the gods who wield power over others’ creations or the Brahmaworld?”

— “Master Sariputta said ‘the Brahma-world.’ Master Sariputta said ‘the Brahma-world.’“

Then the venerable Sariputta thought: “These Brahmins are devoted to the Brahma-world. Suppose I show the Brahmin Dhananjani the path to the company of Brahma?” [And he said:] “Dhananjani, I shall show you the path to the company of Brahma. Listen and attend closely to what I shall say.”

— “Yes, sir,” he replied. [195] The venerable Sariputta said this:

— Này Dhananjani, Tha hóa tự tại thiên hay Phạm thiên giới, chỗ nào tốt hơn? 

— Tôn giả Sariputta đã nói: “Phạm thiên giới”. Tôn giả Sariputta đã nói: “Phạm thiên giới”.

Rồi Tôn giả Sariputta suy nghĩ: “Các vị Bà-la-môn này rất ái luyến Phạm thiên giới. Vậy ta hãy thuyết giảng con đường đưa đến cọng trú với Phạm thiên”.

— Này Dhananjani, ta sẽ thuyết giảng cho Ông con đường đưa đến cọng trú với Phạm thiên. Hãy nghe khéo tác ý, ta sẽ giảng. 

— Thưa vâng. 

Bà-la-môn Dhananjani vâng đáp Tôn giả Sariputta. Tôn giả Sariputta thuyết như sau: 

 

  1. “What is the path to the company of Brahma? Here, Dhananjani, a bhikkhu abides pervading one quarter with a mind imbued with loving-kindness, likewise the second, likewise the third, likewise the fourth; so above, below, around, and everywhere, and to all as to himself, he abides pervading the allencompassing world with a mind imbued with loving-kindness, abundant, exalted, immeasurable, without hostility and without ill will. This is the path to the company of Brahma.

— Này Dhananjani, thế nào là con đường đưa đến cọng trú với Phạm thiên? Ở đây, này Dhananjani, vị Tỷ-kheo an trú, biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ quảng đại, vô biên, không hận, không sân. Này Dhananjani, như vậy là con đường đưa đến cọng trú với Phạm thiên. 

 

33-35. “Again, Dhananjani, a bhikkhu abides pervading one quarter with a mind imbued with compassion … with a mind imbued with appreciative joy … with a mind imbued with equanimity, likewise the second, likewise the third, likewise the fourth; so above, below, around, and everywhere, and to all as to himself, he abides pervading the all-encompassing world with a mind imbued with equanimity, abundant, exalted, immeasurable, without hostility and without ill will. This too is the path to the company of Brahma.”

Lại nữa, này Dhananjani, vị Tỷ-kheo an trú biến mãn một phương với tâm câu hữu với bi… an trú biến mãn một phương với tâm câu hữu với hỷ… an trú biến mãn một phương với tâm câu hữu với xả, cũng vậy phương thứ hai cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại, vô biên, không hận không sân. Này Dhananjani, như vậy là con đường đưa đến cọng trú với Phạm thiên. 

 

  1. “Then, Master Sariputta, pay homage in my name with your head at the Blessed One’s feet, and say: ‘Venerable sir, the Brahmin Dhananjani is afflicted, suffering, and gravely ill; he pays homage with his head at the Blessed One’s feet.’“

–Then the venerable Sariputta, having established the Brahmin Dhananjani in the inferior Brahma-world, rose from his seat and departed while there was still more to be done.  Soon after the venerable Sariputta had left, the Brahmin Dhananjani died and reappeared in the Brahma-world.

— Vậy thưa Tôn giả Sariputta, hãy nhân danh tôi cúi đầu đảnh lễ Thế Tôn và thưa: “Bạch Thế Tôn Bà-la-môn Dhananjani bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh, cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn”.

–Rồi Tôn giả Sariputta, dầu cho có những cảnh giới cao thượng hơn cần phải chứng, sau khi an trú Bà-la-môn vào Phạm thiên giới thấp kém, từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi. Và Bà-la-môn Dhananjani, sau khi Tôn giả Sariputta ra đi không bao lâu, liền mệnh chung và được sanh lên Phạm thiên giới. 

 

  1. Then the Blessed One addressed the bhikkhus thus:

–“Bhikkhus, Sariputta, having established the Brahmin Dhananjani in the inferior Brahma-world, rose from his seat and departed while there was still more to be done.”

Rồi Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: 

— Này các Tỷ-kheo, dầu cho có những cảnh giới cao thượng hơn cần phải chứng, Sariputta sau khi an trú Bà-la-môn Dhananjani vào Phạm thiên giới thấp kém, đã từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi. 

 

  1. Then the venerable Sariputta went to the Blessed One, and after paying homage to him, he sat down at one side and said:

–“Venerable sir, the Brahmin Dhananjani is afflicted, suffering, and gravely ill; he pays homage with his head at the Blessed One’s feet.”

–“Sariputta, having established the Brahmin Dhananjani [196] in the inferior Brahma-world, why did you rise from your seat and leave while there was still more to be done?”

–“Venerable sir, I thought thus: ‘These Brahmins are devoted to the Brahma-world. Suppose I show the Brahmin Dhananjani the path to the company of Brahma.’“

–“Sariputta, the Brahmin Dhananjani has died and has reappeared in the Brahma-world.” 

Rồi Tôn giả Sariputta đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Sariputta bạch Thế Tôn: 

— Bạch Thế Tôn, Bà-la-môn Dhananjani bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh, cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn. 

— Này Sariputta, vì sao, dầu cho có những cảnh giới cao thượng hơn cần phải chứng, Ông sau khi an trú Bà-la-môn Dhananjani vào Phạm thiên giới thấp kém, đã từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi? 

— Bạch Thế Tôn, con nghĩ như sau: “Những vì Bà-la-môn này rất luyến ái Phạm thiên giới”. Do vậy con mới thuyết giảng con đường đưa đến cọng trú với Phạm thiên. 

— Và này Sariputta, Bà-la-môn Dhananjani đã mệnh chung và sanh lên Phạm thiên giới. 

 

Sources:

Tài liệu tham khảo:

  1. http://thuvienhoasen.org/p15a917/97-kinh-dhananjani-dhananjani-sutta
  2. http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/mn/
  3. http://lirs.ru/lib/sutra/The_Middle_Length_Discourses(Majjhima_Nikaya), Nanamoli, Bodhi, 1995.pdf
  4. https://theravada.vn/kinh-dhananjani-dhananjani-sutta-kinh-trung-bo/