92. Hare Krishna – Hare Krishna – Song ngữ

Opening The Door Of Your Heart, And Other Buddhist Tales Of Happiness

Mở Rộng Cửa Tâm Mình

English: Ajahn Brahm

Việt ngữ: Chơn Quán Trần-ngọc Lợi

Compile: Lotus group

 

Chương 10: Freedom and humility – Tự do và khiêm cung

 

  1. Hare Krishna – Hare Krishna

 

In the previous story, the doctor’s ego had caused him

to badly misjudge the warning of a kind-hearted

farmer. In the following story, my monk’s ego caused

me to badly misjudge another kind-hearted person, much to

my distress.

Trong chuyện trên cái tôi của ông bác sĩ lớn quá khiến ông đánh giá sai lòng tốt của bác nông dân muốn báo cho ông biết có con heo đang chạy rong ngoài đường. Còn trong chuyện dưới đây, vì “cái tôi” (của một nhà sư!) tôi đánh giá sai một người có tâm đạo và tự gây cho mình nhiều ân hận.

 

I was finishing a visit to my mother in London. She was

walking alongside me to Ealing Broadway railway station to

help with my ticket. On the way to the station, in busy Ealing

High Street, I heard someone jeering, ‘Hare Krishna! Hare

Krishna!’ Being a bald-headed Buddhist monk wearing brown

robes, I often get confused with the devotees of the Krishna-

Consciousness movement. Many times in Australia, louts

would try to ridicule me, usually from a safe distance, by

shouting ‘Hare Krishna! Hey! Hare Krishna!’ and mocking

my appearance.

Tôi về Luân Đôn thăm mẹ. Vào ngày ra đi mẹ tôi theo tôi ra ga xe lửa Ealing Broadway để giúp tôi mua vé. Trên đường Ealing Broadway tôi thấy có một đám thanh niên đứng chùm nhum đọc to các câu: “Hare Krishna! Hare Krishna!”. Họ lầm tôi là người mộ Hare Krishna và trêu chọc tôi, tôi nghĩ là như vậy. Là sư Phật giáo tôi có đầu trọc và đắp y vàng; nhiều người thiếu hiểu biết thường lầm tưởng tôi với người theo phong trào Hare Krishna đang thịnh hành lúc bấy giờ. Ở Úc tôi thường bị họ chế giễu như vậy hoài.

 

 I quickly spotted the man shouting ‘Hare Krishna!’ and decided to be assertive by taking him to task for publicly abusing a good Buddhist monk. With my mother just behind me, I said to the young man wearing jeans, jacket and a beanie, ‘Look, friend! I’m a Buddhist monk, not a ‘Hare Krishna’ follower. You should know better.

Đám thanh niên đứng ngoài lối đi của tôi, nhưng lần này tôi không bỏ qua, nhất định phải “dạy cho họ một bài học” về tội phỉ báng tu sĩ Phật giáo. Trước mặt mẹ tôi, tôi trịnh trọng lên giọng với anh đội mũ trùm đàu màu vàng, mặc Jeans và áo vét xanh, rằng:

“Này anh bạn! tôi là tu sĩ Phật giáo chứ không phải đệ tử Hare Krishna, anh biết chứ hả?”

 

It’s just not on that you shout ‘Hare Krishna’ at me!’

The young man smiled and took off his beanie, revealing a

long pony-tail on the back of an otherwise bald head. ‘Yeah, I

know!’ he said. ‘You’re a Buddhist monk. I’m a Hare Krishna.

Hare Krishna! Hare Krishna!’

Anh bạn trẻ cười rồi lột mũ để lộ cái đầu trọc mới cạo và rớt cái bím tóc dài xuống vai. Anh nói:

“Vâng tôi biết. Sư là một tu sĩ Phật giáo con tôi là một Hare Krishna. Hare Krishna! Hare Krishna!”

 

He wasn’t jeering at me after all, just doing his Hare

Krishna thing. I was terribly embarrassed. Why do these

things only happen when your mother is with you?

Thật tình anh không có chế giễu tôi mà chỉ đọc chú “Hare Krishna! Hare Krishna!” (nguyên câu chú gồm 16 tên thánh Hare Krishna Hare Krishna!, Krishna Krishna Hare Hare. Hare Rama hare rama, rama rama hare hare” được tụng trừ Kali – ác quỹ.) Tôi đứng chết trân và “quê một cục.” Tại sao những chuyện gây bối rối như vậy cứ xảy đến cho tôi mỗi khi tôi đi với mẹ tôi?

 

Sources:

Tài liệu tham khảo:

  1. https://tienvnguyen.net/p147a887/chuong-10-
  2. https://www.bps.lk/olib/bp/bp619s_Brahm_Opening-The-Doors-Of-Your-Heart.pdf
  3. https://www.boomplay.com/songs/52081615