90. Khi Tôi Giác Ngộ! – When I became enlightened – Song ngữ

Opening The Door Of Your Heart, And Other Buddhist Tales Of Happiness

Mở Rộng Cửa Tâm Mình

English: Ajahn Brahm

Việt ngữ: Chơn Quán Trần-ngọc Lợi

Compile: Lotus group

 

Chương 10: Freedom and humility – Tự do và khiêm cung

 

  1. When I became enlightened – Khi Tôi Giác Ngộ!

 

In my fourth year as a monk in Thailand, I was practising long and hard in a remote forest monastery in the northeast. Late one night, during an extended

spell of walking meditation, my mind grew exceptionally clear. Deep insights came cascading like a mountain waterfall. I was easily understanding profound mysteries that I had never fathomed before. Then the Big One came. It blew me

away. This was it. Enlightenment.

Tôi sang Thái Lan tu được ba năm. Đến năm thứ tư tôi được chuyển đến một tự viện xa xôi hẻo lánh trên miền đông bắc. Vào một chiều tối nọ, trên đường đi thiền hành, tâm tôi chợt tỏ rạng lạ kỳ. Tôi bỗng nhiên hiểu thấu nhiều bí ẩn mà tôi không ngờ. Rồi “Cái Sáng” lớn nhất đến với tôi. Tôi chới với. Giác Ngộ?

 

The bliss was like nothing I had known before. There was

so much joy; yet at the same time it was all so peaceful. I med-

itated till very late, slept very little, and rose in time to begin

more meditation in the monastery hall, well before the 3.00

a.m. bell. Usually at 3.00 a.m., in the hot and humid Thai for-

ests, I would struggle with dullness and sleepiness. But not

this morning. My body was effortlessly upright, mindfulness

was as sharp as a scalpel, and concentration focused easily. It

was so wonderful being enlightened. It was also so disap-

pointing that it didn’t last all that long.

Tôi trải nghiệm thứ hạnh phúc mà tôi chưa từng biết. Tôi cảm thấy hưng phấn vô vàn và cùng lúc rất tự tại. Tôi tiếp tục thiền đến khuya, ngủ rất ít và thức dậy thiền tiếp trước khi kiểng 3:00 giờ sáng đổ. Thường thời thiền lúc 3:00 sáng là thời khó đối với tôi; không khí nóng và ẩm của rừng già làm tôi dễ bị hôn trầm. Nhưng sáng nay thì không: tôi sảng khoái, tỉnh thức và định dễ dàng. Giác ngộ là hạnh phúc tối thượng, nhưng rất tiếc hạnh phúc kéo dài không lâu.

 

In those days in northeast Thailand, the food was disgust-

ing. For instance, once our single meal of the day consisted of

just a ball of sticky rice with a medium-sized boiled frog on

the top. There were no vegetables, no fruit, just frog-and-rice,

and that was all for the day. I started by picking at the meat

on the legs, and after at the frog’s innards. A monk sitting

close to me also started picking at the organs of the frog.

Unfortunately, he pressed the frog’s bladder. There was still

urine inside. So the frog peed all over his rice. He stopped eat-

ing after that.

Thời bấy giờ việc ăn uống trên miền Đông Bắc Thái rất thiếu thốn về lượng lẫn phẩm. Trong tự viện, các sư theo truyền thống Theravada chúng tôi ăn mỗi ngày chỉ một bữa trước ngọ. Vậy mà không phải bữa nào cũng no. Có hôm các sư chúng tôi chỉ nhận được vỏn vẹn một vá cơm nếp với con nhái luộc trung trung, không có rau củ hay trái cây gì cả. Chúng tôi phải xé con nhái ra từng phần một và ăn thịt, xương và luôn những thứ gì ăn được của đồ lòng. Sư bạn ngồi gần tôi vô ý làm bể bọng đái của con nhái khiến vắt cơm nếp khai ngấy và ông phải âm thầm nhịn đói ngày hôm đó.

 

Usually, our main dish every day was rotten fish curry,

and it was made of rotten fish. The small fish, caught during

the rainy season, would be stored in earthen jars and used

throughout the year. I found such a jar once, while cleaning

around our monastery kitchen. It was full of crawling mag-

gots so I went to throw it away. The headman of the village,

the most educated and refined of them all, saw me and told

me not to throw it away.

‘But it’s got maggots in it!’ I protested.

‘Even more delicious!’ he replied, and took the jar from

  1. The next day we had rotten fish curry for our one meal of

the day.

Cà-ri mắm là món ăn hàng ngày của chúng tôi. Mắm tôi nói đây làm bằng cá tạp, muối mặn lè, không thơm tho hay béo bổ gì ráo. Nói tới mắm tôi có một kinh nghiệm nho nhỏ mà tôi chưa quên. Tự viện tôi giữ mắm để ăn quanh năm bằng cách gài mắm trong hũ, và hũ mắm được xếp lểnh nghểnh trong bếp. Một hôm tôi dọn bếp thấy một hũ có giòi, tôi đem đi liệng. Già làng đang công phu trong chùa thấy, ông la oai oái. Ông nói mắm có giòi mới ngon và lượm lại. Hũ này thế nào cũng được nấu cà-ri mắm!

 

The day after my enlightenment, I was surprised to see

two saucepans of curry to flavour our sticky rice. One was the

usual stinking rotten fish curry, the other an edible pork

curry. Today, I thought, I will have a good meal for a change,

to celebrate my attainment. The abbot chose his food ahead of me. He took three huge ladlefuls of the delicious pork curry—the glutton. There was

still plenty left for me. However, before passing the pot over

to me, he began to pour my mouth-watering pork curry into

the pot of rotten fish curry. Then he stirred it all together say-

ing, ‘It’s all the same anyway.’

Ngày sau khi tôi trải nghiệm sự giác ngộ, tôi ngạc nhiên thấy có hai loại cà-ri bày trên bàn ăn – mắm và thịt heo. Tôi chọn thịt heo để gọi là đổi bữa và cũng để ăn mừng thành đạt mới của tôi. Hòa thượng trụ trì múc ba vá lớn. Tham thực! Tuy nhiên vẫn còn dư cho tôi múc. Nhưng trước khi trao cho tôi nồi cà-ri heo mà tôi đang thèm chảy nước miếng, Ngài đổ trộn hai nồi lại và nói, “Hai thứ đều như nhau.”

 

I was speechless. I was fuming. I was incensed. If he really

thought it ‘all the same anyway’, then why did he take three

whopping portions of pork curry for himself first, before mix-

ing it together? The hypocrite! Moreover, he was a local boy

who grew up with stinking rotten fish curry, and so should

like it. The fake! The pig! The cheat!

Tôi giận tới không mở miệng được. Nếu Ngài nghĩ hai thứ như nhau, sao Ngài múc đến ba vá heo rồi mới trộn hai nồi? Đạo đức giả! Hơn thế nữa Ngài sinh ra và lớn lên tại đây, Ngài quen mùi cà-ri mắm hơn tôi chớ. Dởm! Heo! Lừa đảo!

 

Then a realisation hit me. Enlightened ones do not have

preferences over food, nor do they get angry and call their

abbots, albeit under the breath, pigs! I sure was angry and

that meant—oh no!—that I wasn’t enlightened after all.

Vừa nghĩ tới đó tôi nhận thức ngay rằng người giác ngộ đâu cần phân biệt món ăn, không thể sân hận, và đâu được gọi thầy mình là heo! Tôi đã thật sự giận hờn, và ô hô… làm sao tôi dám nói mình đã giác ngộ!

 

The fire of my anger was immediately dampened by sod-

den depression. Thick dark clouds of dismay rolled in on my

heart and completely obscured the sun that once was my

enlightenment. Downcast and in gloom, I slopped two ladles

of smelly rotten fish and pork curry onto my rice. I didn’t care

what I ate now; I was so dispirited. Finding out that I wasn’t

enlightened after all spoiled my whole day.

Lửa sân của tôi tức thì bị dập tắt bởi sự buồn bực đang dâng trào. Mây đen kinh hãi ùn ùn kéo đến che khuất ánh sáng rạng rỡ từng là “giác ngộ của tôi”. U sầu, tôi đổ hai vá cà-ri trộn vô bình bát và tôi không còn tha thiết với bữa ăn nữa. Tôi hoàn toàn chán nản. Và biết rằng mình đâu có được chút giải thoát nào trước đây, tôi buồn rầu suốt ngày hôm ấy.

 

Sources:

Tài liệu tham khảo:

  1. https://tienvnguyen.net/p147a887/chuong-10-
  2. https://www.bps.lk/olib/bp/bp619s_Brahm_Opening-The-Doors-Of-Your-Heart.pdf
  3. https://www.youtube.com/watch?v=VQrhl7KJ0m4