89. Tăng Thượng Mạn và Giác Ngộ – Abuse and enlightenment – Song ngữ
Opening The Door Of Your Heart, And Other Buddhist Tales Of Happiness
Mở Rộng Cửa Tâm Mình
English: Ajahn Brahm
Việt ngữ: Chơn Quán Trần-ngọc Lợi
Compile: Lotus group
Chương 10: Freedom and humility – Tự do và khiêm cung
- Abuse and enlightenment – Tăng Thượng Mạn và Giác Ngộ
Experienced meditation teachers often have to deal with disciples who claim to be enlightened. One of the time-honoured ways to test if their claims are
true is to abuse the disciple so grossly that they end up getting angry. As all Buddhist monks and nuns know, the Buddha clearly stated that one who gets angry is certainly not enlightened.
Thiền sư trưởng lão thường hay thử các môn sinh tự cho mình đã đạt. Một trong những cách thử xem họ đạt tới đâu là đối xử tàn tệ với họ để đo phản ứng của họ. Như tất cả các tăng ni đều biết, lời Phật dạy rất rõ ràng: ai sân hận người ấy chưa thể nói là đã giác ngộ.
A young Japanese monk, strenuously intent on nirvana in
this very life, was meditating in solitude in a secluded lake-
island hermitage near a famous monastery. He wanted to get
enlightenment out of the way early on in his life, so he could
then attend to other things. When the monastery attendant arrived in his small row-boat on his weekly visit to deliver supplies, the young monk left a note requesting some expensive parchment, a quill and some fine quality ink. He was soon to complete his third year in solitude and wanted to let his abbot know how well he had done.
Một nhà sư trẻ người Nhật rất muốn đạt được giác ngộ trong cuộc sống hôm nay nên dồn hết mọi nỗ lực cho công phu thiền tập; ông thiền ngày thiền đêm trên một đảo vắng gần một chùa nổi tiếng. Một hôm ông lưu cho chú tiểu phục vụ ông mảnh giấy yêu cầu gởi cho ông giấy hoa, bút lông, mực tốt; chú tiểu bơi xuồng qua đảo hàng tuần để cung cấp nhu yếu phẩm cho ông. Ông sắp mãn năm thứ ba sống tu trên đảo nên muốn viết trình lên hòa thượng trụ trì thành quả của mình.
The parchment, quill and ink arrived the following week.
In the next few days, after much meditating and pondering,
the young monk wrote on the fine parchment in the most
exquisite of calligraphy the following short poem:
Tuần lễ sau ông nhận được đầy đủ giấy viết và mực. Ông suy ngẫm và cân nhắc mấy ngày liên tiếp trước khi đặt bút xuống, nắn nót từng chữ một, viết ra bài thơ sau:
“The conscientious young monk,
Meditating three years alone,
Can no longer be moved,
By the four worldly winds.”
Tinh tấn nhà sư trẻ tọa thiền,
Một mình trên đảo suốt ba niên.
Kiên tâm không thể ai lay chuyển,
Kể cả kình phong của bốn miền.
Surely, he thought, his wise old abbot would see in these
words, and in the care by which they were written, that his
disciple was now enlightened. He gently rolled up the parch-
ment, carefully tied it with a ribbon, and then waited for the
attendant to deliver it to his teacher.
Qua những ý tứ tuyệt vời và dòng thư pháp rồng bay phượng múa của ông, ông tin tưởng Hòa thượng sẽ thấy ông cao siêu tột độ. Ông cẩn thận cuộn tròn tờ giấy hoa, thắt nơ đẹp và nhờ chú tiểu chuyển đến Hòa thượng trong chuyến sắp đến. Chú tiểu bơi xuồng qua và về như thường lệ, nhưng lần này chú có đem đi cuộn giấy hoa của nhà sư trẻ.
In the days that followed, he imagined his abbot’s pleasure at reading the brilliant poem so meticulously inscribed. He could see it being hung in a
costly frame in the monastery’s main hall. No doubt they would press him to be an abbot now, maybe of a famous city monastery. How nice he felt to have made it at last!
Suốt tuần lễ tiếp theo nhà sư trẻ tưởng tượng Hòa thượng sẽ vui khi đọc bài thơ của ông và lọng kiếng kiệt tác này để treo lên tường trong tự viện. Rồi ông sẽ được mời đi trụ trì một chùa lớn trong thành phố. Ông thành công! Ôi vui sướng biết bao!
When the attendant next rowed the small boat to the
island to deliver the weekly supplies, the young monk was
waiting for him. The attendant soon handed the monk a
parchment similar to the one he had sent, but tied with a dif-
ferent coloured ribbon. ‘From the abbot,’ said the attendant
tersely. The monk excitedly tore off the ribbon and unfurled the
scroll. As his eyes settled on the parchment, they grew as
wide as the moon, and his face went just as white. It was his
own parchment, but next to the first line of exquisite calligra-
phy, the abbot had carelessly scribbled in a red ballpoint pen,
‘Fart!’ To the right of the second line was another ugly
smudge of red ink saying, ‘Fart!’ The third line had another
irreverent ‘Fart!’ scrawled over it, and so did the fourth line of
verse.
Cuối tuần chú tiểu bơi xuồng qua trao cho ông cuộn giấy hoa giống hệt cuộn của ông gởi cho Hòa thượng nhưng với dây buộc khác. Chú nói cộc lốc có mấy chữ, “của hòa thượng.” Ông hồi hộp tháo dây và mở cuộn giấy. Mắt ông tròn xoe và mặt ông tái xanh. Chính là cuộn giấy hoa với bài thơ của ông viết gởi cho hòa thượng. Chỉ khác có một chút là cuối mỗi câu có thêm chữ đỏ nghuệch ngoạc của hòa thượng viết, “Địt.”
This was too much! Not only was the decrepit old abbot
so stupid that he couldn’t recognise enlightenment when it
was in front of his fat nose, but he was so uncouth and uncivi-
lised that he had vandalised a work of art with indecent
graffiti. The abbot was behaving like a punk, not a monk. It
was an insult to art, to tradition and to truth.
Thiệt quá đáng! Ông nghĩ vậy. Hòa thượng lụ khụ này rất ngô nghê không biết giác ngộ là gì dầu nó được đặt trước mũi ông. Đã vậy, ông còn thô lỗ và thiếu văn minh đến độ dám làm hỏng một kiệt tác. Ông xử sự không khác gì một tên côn đồ – chớ không phải sư. Đúng là một lăng mạ đối với văn học, truyền thống và chân lý.
The young monk’s eyes narrowed with indignation, his
face flushed red with righteous anger, and he snorted as he
insisted of the attendant, ‘Take me to the abbot! Immediately!’
Ông nhíu mày phẫn nộ. Mặt ông đỏ gay vì sân hận. Ông thở phì phì vừa gằn giọng với chú tiểu: “Chú đưa tôi về gặp hòa thượng gấp. Đi ngay bây giờ!”
It was the first time in three years that the young monk
had left his island hermitage. In a rage, he stormed into the
abbot’s office, slammed the parchment on the table and
demanded an explanation.
Đây là lần đầu tiên trong ba năm liền nhà sư trẻ rời hòn đảo hoang. Tới tự viện, ông đi thẳng vô liêu của Hòa thượng trụ trì, thảy cuộn giấy hoa xuống bàn và yêu cầu được giải thích.
The experienced abbot slowly picked up the parchment,
cleared his throat, and read out the poem:
Hòa thượng trụ trì vói lượm và nhẹ nhàng mở cuộn giấy ra. Ngài tằng hắng rồi đọc lớn:
“The conscientious young monk,
Meditating three years alone,
Can no longer be moved,
By the four worldly winds.”
Tinh tấn nhà sư trẻ tọa thiền, “Địt”
Một mình trên đảo suốt ba niên. “Địt”
Kiên tâm không thể ai lay chuyển, “Địt”
Kể cả kình phong của bốn miền. “Địt”
Then he put down the parchment, stared at the young
monk, and continued. ‘Hmm! So, young monk, you are no
longer moved by the four worldly winds. Yet four little farts
have blown you right across the lake!’
Đoạn Ngài đặt bài thơ lên bàn và ôn tồn nói: “Này sư chú, tâm sư chú không thể bị lay chuyển, kể cả kình phong. Vậy mà chỉ có mấy hơi địt, chú bị đẩy bay qua hồ về đây!”
Sources:
Tài liệu tham khảo:
- https://tienvnguyen.net/p147a887/chuong-10-
- https://www.bps.lk/olib/bp/bp619s_Brahm_Opening-The-Doors-Of-Your-Heart.pdf
- https://wisdom.srisriravishankar.org/lord-buddha-enlightenment/