82. Chương 82. Kinh Ratthapàla – MN 82: On Ratthapala – Song ngữ

 

Majjhima Nikaya – Middle-length Discourses of the Buddha

Trung Bộ Kinh

Anh ngữ: Bhikkhu Ñāṇamoli      

Việt ngữ: Hòa thượng Thích Minh Châu

Compile: Lotus group

Part II – Majjhima Nikaya – Middle Length Discourses – Trung Bộ Kinh

Chương 82. Kinh Ratthapàla – MN 82: On Ratthapala – (Ratthapàla sutta)

 

  1. Thus have I heard:

On one occasion the Blessed One was wandering in the Kuru country with a large Sangha of bhikkhus, and eventually he arrived at a Kuru town named Thullakotthita.

Tôi nghe như vầy: 

Một thời Thế Tôn du hành ở giữa dân chúng Kuru, cùng với đại chúng Tỷ-kheo, và đi đến một thị trấn của dân chúng Kuru tên là Thullakotthita. 

 

  1. The Brahmin householders of Thullakotthita heard: “The recluse Gotama, the son of the Sakyans who went forth from a Sakyan clan, has been wandering in the Kuru country [55] with a large Sangha of bhikkhus and has come to Thullakotthita. Now a good report of Master Gotama has been spread to this effect: ‘That Blessed One is accomplished, fully enlightened, perfect in true knowledge and conduct, sublime, knower of worlds, incomparable leader of persons to be tamed, teacher of gods and humans, enlightened, blessed. He declares this world with its gods, its Maras, and its Brahmas, this generation with its recluses and Brahmins, its princes and its people, which he has himself realised with direct knowledge. He teaches the Dhamma good in the beginning, good in the middle, and good in the end, with the right meaning and phrasing, and he reveals a holy life that is utterly perfect and pure.’ Now it is good to see such arahants.”

Các Bà-la-môn, gia chủ ở Thullakotthita được nghe như sau: “Sa-môn Gotama là Thích tử, Tôn giả xuất gia từ dòng họ Sakya, du hành giữa dân chúng Kuru nay đã đến Thullakotthita với đại chúng Tỷ-kheo. Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được nói lên về Tôn giả Gotama: “Đây là đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Ngài với thắng trí tự thân chứng ngộ thế giới này cùng với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, cùng với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, các loài Trời và Người. Khi đã chứng ngộ, Ngài còn tuyên bố sự chứng ngộ ấy cho người khác. Ngài thuyết pháp, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, văn nghĩa đầy đủ, và giới thiệu đời sống Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ trong sạch”. Tốt đẹp thay, sự chiêm ngưỡng một vị A-la-hán như vậy”.

 

  1. Then the Brahmin householders of Thullakotthita went to the Blessed One. Some paid homage to the Blessed One and sat down at one side; some exchanged greetings with him, and when this courteous and amiable talk was finished, sat down at one side; some extended their hands in reverential salutation towards the Blessed One and sat down at one side; some pronounced their name and clan in the Blessed One’s presence and sat down at one side; some kept silent and sat down at one side.

When they were seated, the Blessed One instructed, urged, roused, and encouraged them with talk on the Dhamma.

Rồi các Bà-la-môn, gia chủ ở Thullakotthita đi đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, một số người đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Một số người nói lên những lời chào đón hỏi thăm với Thế Tôn, và sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên. Một số người chấp tay vái chào Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Một số người xưng tên và dòng họ rồi ngồi xuống một bên. Một số người yên lặng ngồi xuống một bên. 

Rồi Thế Tôn với pháp thoại khích lệ, làm cho thích thú, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ các vị Bà-la-môn, gia chủ ở Thullakotthita đang ngồi một bên. 

 

  1. Now at that time a clansman named Ratthapala, the son of the leading clan in that same Thullakotthita, was sitting in the assembly. Then it occurred to him: “As I understand the Dhamma taught by the Blessed One, it is not easy while living in a home to lead the holy life, utterly perfect and pure as a polished shell. Suppose I shave off my hair and beard, put on the yellow robe, and go forth from the home life into homelessness.”

Lúc bấy giờ, một thiện nam tử tên là Ratthapala, con trai một gia đình thượng tộc ở chính tại Thullakotthita ấy, đang ngồi trong hội chúng này. Rồi thiện nam tử Ratthapala suy nghĩ như sau: “Như ta được hiểu lời Thế Tôn thuyết pháp, thời sống tại gia đình thật không dễ gì thực hành Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn, hoàn toàn trong sạch, trắng bạch như vỏ ốc. Vậy ta hãy cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình”. 

 

  1. Then the Brahmin householders of Thullakotthita, having been instructed, urged, roused, and encouraged by the Blessed One with talk on the Dhamma, delighted and rejoiced in his words. They then rose from their [56] seats, and after paying homage to him, they departed, keeping him on their right.

Rồi các Bà-la-môn, gia chủ ở Thullakotthita, sau khi được Thế Tôn với pháp thoại khích lệ, làm cho thích thú, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, sau khi hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi ra đi. 

 

  1. Soon after they had gone, the clansman Ratthapala went to the Blessed One, and after paying homage to him, he sat down at one side and said to the Blessed One:

–“Venerable sir, as I understand the Dhamma taught by the Blessed One, it is not easy while living in a home to lead the holy life, utterly perfect and pure as a polished shell. Venerable sir, I wish to shave off my hair and beard, put on the yellow robe, and go forth from the home life into homelessness. I would receive the going forth under the Blessed One, I would receive the full admission.”

–“Have you been permitted by your parents, Ratthapala, to go forth from the home life into homelessness?”

–“No, venerable sir, I have not been permitted by my parents.”

–“Ratthapala, Tathagatas do not give the going forth to anyone who does not have his parents’ permission.”

–“Venerable sir, I shall see to it that my parents permit me to go forth from the home life into homelessness.”

Thiện nam tử Ratthapala sau khi các Bà-la-môn, gia chủ ra đi không bao lâu, liền đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, thiện nam tử Ratthapala bạch Thế Tôn: 

— Bạch Thế Tôn, như con được hiểu lời Thế Tôn thuyết pháp, thời sống tại gia đình thật không dễ gì thực hành Phạm hạnh, hoàn toàn viên mãn, hoàn toàn trong sạch, trắng bạch như vỏ ốc. Con muốn, bạch Thế Tôn, cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn cho con xuất gia dưới sự chỉ dẫn của Thế Tôn, cho con thọ đại giới.

— Nhưng này Ratthapala, Ông có được cha mẹ bằng lòng cho Ông xuất gia chưa? 

— Bạch Thế Tôn, con chưa được cha mẹ bằng lòng cho con xuất gia. 

— Này Ratthapala, Như Lai không có cho ai xuất gia nếu không được cha mẹ người ấy bằng lòng. 

— Như vậy, bạch Thế Tôn, con sẽ làm những gì cần thiết để cha mẹ bằng lòng cho con được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.

 

  1. Then the clansman Ratthapala rose from his seat, and after paying homage to the Blessed One, he departed, keeping him on his right. He went to his parents and told them:

–“Mother and father, as I understand the Dhamma taught by the Blessed One, it is not easy while living in a home to lead the holy life, utterly perfect and pure as a polished shell. I wish to shave off my hair and beard, put on the yellow robe, and go forth from the home life into homelessness. Give me permission to go forth from the home life into homelessness.”

When he had said this, his parents replied:

–“Dear Ratthapala, you are our only son, dear and beloved. You have been raised in comfort, brought up in comfort; you know nothing of suffering, dear Ratthapala. [57] Even in case of your death we would lose you unwillingly, so how could we give you our permission to go forth from the home life into homelessness while you are still living?”

For the second time … For the third time the clansman Ratthapala said to his parents:

–“Mother and father … give me permission to go forth from the home life into homelessness.”

For the third time his parents replied:

–“Dear Ratthapala … how could we give you our permission to go forth from the home life into homelessness while you are still living?”

Then, not receiving his parents’ permission to go forth, the clansman Ratthapala lay down there on the bare floor, saying:

“Right here I shall either die or receive the going forth.” [58]

Rồi thiện nam tử Ratthapala từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài, rồi ra đi, đi đến cha mẹ, sau khi đến liền thưa với cha mẹ: 

— Thưa Mẹ và Cha, như con được hiểu lời Thế Tôn thuyết pháp, thời sống tại gia đình thật không dễ gì thực hành Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn, hoàn toàn trong sạch, trắng bạch như vỏ ốc. Con muốn cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Hãy bằng lòng cho con được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. 

Khi được nghe nói vậy, cha mẹ Thiên nam tử Ratthapala nói với thiện nam tử Ratthapala: 

— Này con thân yêu Ratthapala, con là đứa con độc nhất của mẹ cha, khả ái, dễ thương, được sống trong an lạc, được nuôi dưỡng trong an lạc. Này con thân yêu Ratthapala, con không biết gì về đau khổ. Này con thân yêu Ratthapala hãy đến ăn, hãy uống và hãy ăn chơi. Ăn, uống, ăn chơi, con có thể thụ hưởng các ái dục và sung sướng làm các phước đức. Chúng ta không bằng lòng cho con được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Nếu con có chết, chúng ta còn không muốn không có mặt con, huống nay con còn sống, chúng ta lại bằng lòng cho con được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình! 

Lần thứ hai… Lần thứ ba, thiện nam tử Ratthapala thưa với mẹ cha: 

— Thưa Mẹ và Cha, như con được hiểu lời Thế Tôn thuyết pháp, thời sống tại gia thật không dễ gì thực hành Phạm hạnh, hoàn toàn viên mãn, hoàn toàn thanh tịnh, trắng bạch như vỏ ốc. Con muốn cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Hãy bằng lòng cho con được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. 

Lần thứ ba, cha mẹ thiện nam tử Ratthapala nói với thiện nam tử Ratthapala: 

— Này con thân yêu Ratthapala, con là đứa con độc nhất của mẹ cha, khả ái, dễ thương, được sống trong an lạc, được nuôi dưỡng trong an lạc. Này con thân yêu Ratthapala, con không biết gì về đau khổ. Này con thân yêu Ratthapala, hãy đến ăn, hãy sống và hãy vui chơi. Ăn, uống, vui chơi, con có thể thụ hưởng các ái dục và sung sướng làm các phước đức. Chúng ta không bằng lòng cho con được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Nếu con có chết, chúng ta còn không muốn không có mặt con, huống nay con còn sống, chúng ta lại bằng lòng cho con được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình! 

Rồi thiện nam tử Ratthapala không được cha mẹ cho xuất gia, liền ngay tại chỗ ấy nằm xuống trên đất trần và nói: 

— Ta sẽ chết ở đây, hay được xuất gia. 

 

  1. Then the clansman Ratthapala’s parents said to him:

–“Dear Ratthapala, you are our only son, dear and beloved. You have been raised in comfort, brought up in comfort; you know nothing of suffering, dear Ratthapala. Get up, dear Ratthapala, eat, drink, and amuse yourself. While eating, drinking, and amusing yourself, you can be happy enjoying sensual pleasures and making merit. We do not permit you to go forth from the home life into homelessness. Even in the case of your death we would lose you unwillingly, so how could we give you our permission to go forth from the home life into homelessness while you are still living?” When this was said, the clansman Ratthapala was silent.

For the second time … For the third time his parents said to him: “Dear Ratthapala … how could we give you our permission to go forth from the home life into homelessness while you are still living?” For the third time the clansman Ratthapala was silent.

Rồi cha mẹ thiện nam tử Ratthapala nói với thiện nam tử Ratthapala: 

— Này con thân yêu Ratthapala, con là đứa con độc nhất của cha mẹ, khả ái, dễ thương, được sống trong an lạc, được nuôi dưỡng trong an lạc. Này con thân yêu Ratthapala, con không biết gì về đau khổ. Hãy đứng dậy, này con thân yêu Ratthapala, hãy ăn, hãy uống, hãy vui chơi. Ăn, uống, vui chơi, con có thể thụ hưởng các ái dục và sung sướng làm các phước đức. Chúng ta không bằng lòng cho con được xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Nếu con có chết, chúng ta còn không muốn không có mặt con, huống nay con còn sống, chúng ta lại bằng lòng cho con được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình! 

Khi được nghe nói vậy, thiện nam tử Ratthapala giữ im lặng. Lần thứ hai… Lần thứ ba, cha mẹ thiện nam tử Ratthapala nói với thiện nam tử Ratthapala: 

— Này con thân yêu Ratthapala, con là đứa con độc nhất của cha mẹ, khả ái, dễ thương, sống trong an lạc, được nuôi dưỡng trong an lạc. Này con thân yêu Ratthapala, con không biết gì về đau khổ. Hãy đứng dậy, này con thân yêu Ratthapala, hãy ăn, hãy uống, hãy vui chơi. Ăn, uống, vui chơi, con có thể thụ hưởng cái ái dục và sung sướng làm các phước đức. Chúng ta không bằng lòng cho con được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Nếu con có chết, chúng ta còn không muốn không có mặt con, huống nay con còn sống, chúng Ta lại bằng lòng cho con được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình! 

Lần thứ ba, thiện nam tử Ratthapala giữ im lặng. 

 

  1. Then the clansman Ratthapala’s parents went to his friends and said to them: “Dears, the clansman Ratthapala has lain down on the bare floor, having said: ‘Right here I shall either die or receive the going forth.’ Come, dears, go to the clansman Ratthapala and say to him: ‘Friend Ratthapala, you are your parents’ only son … Get up, friend Ratthapala, eat, drink, and amuse yourself … [59] how could your parents give you their permission to go forth from the home life into homelessness while you are still living?’“

Rồi cha mẹ thiện nam tử Ratthapala liền đi đến các thân hữu của thiện nam tử Ratthapala, và nói: 

— Này các Thân hữu, thiện nam tử Ratthapala nằm trên đất trần và nói: “Ở đây, ta sẽ chết, hay được xuất gia”. Này các con thân mến, hãy đi đến thiện nam tử Ratthapala, sau khi đến hãy nói với thiện nam tử Ratthapala: “Này bạn Ratthapala, bạn là con độc nhất của cha mẹ, khả ái, dễ thương, được sống trong an lạc, được nuôi dưỡng trong an lạc. Này bạn Ratthapala, bạn không biết gì về đau khổ. Hãy đứng dậy bạn Ratthapala, hãy ăn, hãy uống, hãy vui chơi. Ăn, uống, vui chơi, bạn có thể thụ hưởng các ái dục và sung sướng làm phước đức, cha mẹ không bằng lòng cho bạn được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Nếu bạn có chết đi, cha mẹ còn không muốn không có mặt bạn, huống nay bạn còn sống, cha mẹ bạn lại bằng lòng cho bạn được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình!”

 

  1. Then the clansman Ratthapala’s friends went to him and said:

–“Friend Ratthapala, you are your parents’ only son, dear and beloved. You have been raised in comfort, brought up in comfort; you know nothing of suffering, friend Ratthapala. Get up, friend Ratthapala, eat, drink, and amuse yourself. While eating, drinking, and amusing yourself, you can be happy enjoying sensual pleasures and making merit. Your parents do not permit you to go forth from the home life into homelessness. Even in case of your death they would lose you unwillingly, so how could they give you their permission to go forth from the home life into homelessness while you are still living?” When this was said, the clansman Ratthapala was silent.

For the second time … For the third time his friends said to him:

–“Friend Ratthapala … how could they give you their permission to go forth from the home life into homelessness while you are still living?” For the third time the clansman Ratthapala was silent.

Rồi những người bạn của thiện nam tử Ratthapala vâng theo lời cha mẹ của thiện nam tử Ratthapala, đi đến chỗ thiện nam tử Ratthapala, sau khi đến liền nói: 

— Này bạn Ratthapala, bạn là con độc nhất của cha mẹ, khả ái, dễ thương, được sống trong an lạc, được nuôi dưỡng trong an lạc. Này bạn Ratthapala, bạn không biết gì về đau khổ. Hãy đứng dậy, bạn Ratthapala, hãy ăn, hãy uống, hãy vui chơi. Ăn, uống, vui chơi, bạn có thể thụ hưởng các ái dục và sung sướng làm các phước đức. Cha mẹ không bằng lòng cho phép bạn được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Nếu bạn có chết đi, cha mẹ còn không muốn không có mặt bạn, huống nay bạn còn sống, cha mẹ bạn lại bằng lòng cho bạn được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình! 

Khi được nghe nói vậy, thiện nam tử Ratthapala giữ im lặng. Lần thứ hai… Lần thứ ba, những người bạn của thiện nam tử Ratthapala, nói với thiện nam tử Ratthapala: 

— Này bạn Ratthapala, bạn là con độc nhất của cha mẹ, khả ái, dễ thương, được sống trong an lạc, được nuôi dưỡng trong an lạc. Này bạn Ratthapala, bạn không biết gì về đau khổ. Hãy đứng dậy, bạn Ratthapala, hãy ăn, hãy uống, hãy vui chơi. Ăn uống, vui chơi, bạn có thể thụ hưởng các ái dục, và sung sướng làm các phước đức. Cha mẹ không bằng lòng cho phép bạn được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Nếu bạn chết đi, cha mẹ còn không muốn không có mặt bạn, huống nay bạn còn sống, cha mẹ bạn lại bằng lòng cho phép bạn được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình ! 

Lần thứ ba, thiện nam tử Ratthapala giữ im lặng. 

 

  1. Then the clansman Ratthapala’s friends went to his parents and said to them: “Mother and father, the clansman Ratthapala is lying down there on the bare floor, having said: ‘Right here I shall either die or [60] get the going forth.’ Now if you do not give him your permission to go forth from the home life into homelessness, he will die there. But if you give him your permission, you will see him after he has gone forth. And if he does not enjoy the going forth, what else can he do then but return here? So give him your permission to go forth from the home life into homelessness.”

–“Then, dears, we give the clansman Ratthapala permission to go forth from thehome life into homelessness. But when he has gone forth, he must visit his parents.”

Then the clansman Ratthapala’s friends went to him and told him: “Get up, friend Ratthapala. Your parents permit you to go forth from the home life into homelessness. But when you have gone forth, you must visit your parents.”

Rồi các thân hữu của thiện nam tử Ratthapala đi đến cha mẹ thiện nam tử Ratthapala, sau khi đến liền thưa: 

— Thưa Mẹ và Cha, thiện nam tử Ratthapala đang nằm xuống trên đất trần kia và nói: “Ở đây, ta sẽ chết, hay được xuất gia”. Nếu Cha Mẹ không bằng lòng cho thiện nam tử Ratthapala xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, thời Ratthapala sẽ chết ở tại chỗ ấy. Còn nếu Cha Mẹ bằng lòng cho thiện nam tử Ratthapala xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, thời Cha Mẹ có thể thấy Ratthapala sau khi xuất gia. Nếu thiện nam tử Ratthapala không cảm thấy hoan hỷ trong khi xuất gia tử bỏ gia đình, sống không gia đình, thời Ratthapala không còn con đường nào đi khác hơn. Ratthapala sẽ trở lại ở đây. Hãy bằng lòng cho phép thiện nam tử Ratthapala xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. 

— Này các con thân mến, chúng ta bằng lòng cho phép thiện nam tử Ratthapala xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, nhưng sau khi xuất gia, cần phải về thăm cha mẹ. 

Rồi những thân hữu của thiện nam tử Ratthapala, đi đến thiện nam tử Ratthapala, sau khi đến, liền nói: 

— Này bạn Ratthapala, bạn là con độc nhất của cha mẹ, khả ái, dễ thương, sống trong an lạc, được nuôi dưỡng trong an lạc. Này bạn Ratthapala, bạn không biết gì về đau khổ. Hãy đứng dậy, ăn, uống, và vui chơi. Ăn, uống, vui chơi, bạn có thể thụ hưởng các ái dục, và sung sướng làm các phước đức. Cha mẹ bạn đã bằng lòng cho phép được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, và sau khi xuất gia, cần phải về thăm cha mẹ. 

 

  1. The clansman Ratthapala then got up, and when he had regained his strength, he went to the Blessed One, and after paying homage to him, he sat down at one side and told him:

–“Venerable sir, I have my parents’ permission to go forth from the home life into homelessness. Let the Blessed One give me the going forth.” Then the clansman Ratthapala received the going forth under the Blessed One, and he received the full admission.

Rồi thiện nam tử Ratthapala, sau khi đứng dậy, sau khi lấy lại sức lực, liền đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, thiện nam tử Ratthapala bạch Thế Tôn: 

— Bạch Thế Tôn, con đã được mẹ cha bằng lòng cho phép con được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Thế Tôn hãy xuất gia cho con. 

Và thiện nam tử Ratthapala được xuất gia dưới sự chỉ dẫn của Thế Tôn và được thọ đại giới. 

 

  1. Then not long after the venerable Ratthapala had received the full admission, a half-month after he had received the full

admission, the Blessed One, having stayed at Thullakotthita as long as he chose, set out to wander towards Savatthi. Wandering by stages, he eventually arrived at Savatthi, and there [61] he lived at Savatthi in Jeta’s Grove, Anathapindika’s Park.

Rồi Thế Tôn, sau khi Tôn giả Ratthapala thọ đại giới không bao lâu, nửa tháng sau khi thọ đại giới, sau khi ở tại Thullakotthita cho đến khi thỏa mãn, liền khởi hành đi đến Savatthi, tuần tự du hành và đến Savatthi. Ở đấy, Thế Tôn trú tại Savatthi, Jetavana, tu viện của Anathapindika. 

 

  1. Before long, dwelling alone, withdrawn, diligent, ardent, and resolute, the venerable Ratthapala, by realising for himself with direct knowledge, here and now entered upon and abided in that supreme goal of the holy life for the sake of which clansmen rightly go forth from the home life into homelessness. He directly knew: “Birth is destroyed, the holy life has been lived, what had to be done has been done, there is no more coming to any state of being.” And the venerable Ratthapala became one of the arahants.

Rồi Tôn giả Ratthapala sống một mình, viễn ly, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh tấn, không bao lâu đạt được mục đích mà các thiện nam tử chơn chánh xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình hướng đến, tức là tự chứng ngộ với thắng trí, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại vô thượng cứu cánh Phạm hạnh. Vị ấy biết: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn phải trở lui ở đời này nữa”. Tôn giả Ratthapala trở thành một vị A-la-hán nữa. 

 

  1. Then the venerable Ratthapala went to the Blessed One, and after paying homage to him, he sat down at one side and told him:

–“Venerable sir, I wish to visit my parents, if I have the Blessed One’s permission.”

Then the Blessed One penetrated mentally the thoughts in venerable Ratthapala’s mind. When he knew that the clansman Ratthapala was incapable of abandoning the training and returning to the low life, he told him:

–“Now is the time, Ratthapala, to do as you think fit.”

Rồi Tôn giả Ratthapala đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ratthapala bạch Thế Tôn: 

— Bạch Thế Tôn, con muốn đi thăm cha mẹ, nếu Thế Tôn cho phép con. 

Thế Tôn với tâm của mình tìm hiểu tâm tư Tôn giả Ratthapala. Khi Thế Tôn được biết thiện nam tử Ratthapala không thể từ bỏ tu học, trở lại hoàn tục, liền nói với Tôn giả Ratthapala: 

— Này Ratthapala, nay Ông hãy làm những gì Ông nghĩ là hợp thời. 

 

  1. Then the venerable Ratthapala rose from his seat, and after paying homage to the Blessed One, he departed, keeping him on his right. He then set his resting place in order, and taking his bowl and outer robe, set out to wander towards Thullakotthita. Wandering by stages, he eventually arrived at Thullakotthita. There he lived in Thullakotthita in King Koravya’s Migacira Garden. Then, when it was morning, he dressed, and taking his bowl and outer robe, went into Thullakotthita for alms. As he was wandering for alms from house to house in Thullakotthita, he came to his own father’s house.

Rồi Tôn giả Ratthapala từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân hữu hướng về Thế Tôn, sau khi thâu xếp chỗ ở, cầm y bát và khởi hành đi đến Thullakotthita, tuần tự du hành và đến Thullakotthita. Ở đấy, Tôn giả Ratthapala trú tại vườn Lộc Uyển của vua Koravya. Rồi tôn giả Ratthapala vào buổi sáng đắp y, cầm bát, đi vào Thullakotthita để khất thực. Tôn giả đi khất thực từng nhà một ở Thullakotthita và đến tại nhà người cha mình. 

 

  1. Now on that occasion the venerable Ratthapala’s father was sitting in the hall of the central door having his hair dressed. When he saw the venerable Ratthapala coming in the distance, he said:

–“Our only son, dear and beloved, was made to go forth by these bald-pated recluses.” [62] Then at his own father’s house the venerable Ratthapala received neither alms nor a polite refusal; instead, he received only abuse.

Lúc bấy giờ người cha của Tôn giả Ratthapala đang chải tóc ở giữa gian phòng có cửa. Người cha của Tôn giả Ratthapala thấy Tôn giả Ratthapala từ xa đi đến, và nói. 

— Chính vì những Sa-môn đầu trọc này mà đứa con độc nhất của chúng ta, khả ái, dễ thương đã xuất gia. 

Và Tôn giả Ratthapala từ ngôi nhà của cha mình, không được bố thí, không nhận được lời từ chối chỉ nhận được lời sĩ nhục. 

 

  1. Just then a slavewoman belonging to one of his relatives was about to throw away some old porridge. Seeing this, the venerable Ratthapala said to her:

–“Sister, if that stuff is to be thrown away, then pour it into my bowl here.”

While she was doing so, she recognised the characteristic features of his hands, his feet, and his voice. Then she went to his mother and said:

–“Please know, my lady, that my lord’s son Ratthapala has arrived.”

–“Gracious! If what you say is true, you are no longer a slave!”

Then the venerable Ratthapala’s mother went to his father and said: “Please know, householder, they say that the clansman Ratthapala has arrived.”

Lúc bấy giờ, người nữ tỳ thân gia của Tôn giả Ratthapala muốn quăng đổ cháo ngày hôm qua. Tôn giả Ratthapala nói với người nữ tỳ ấy: 

— Này Chị, nếu cần phải quăng đổ cháo này, hãy đổ vào bát của tôi ở đây. 

Rồi người nữ tỳ, trong khi đổ cháo ngày hôm qua ấy vào bát của Tôn giả Ratthapala, nhận diện được tướng tay, chân và giọng nói của Tôn giả. Người nữ tỳ liền đi đến người mẹ của Tôn giả Ratthapala, sau khi đến nói với người mẹ của Tôn giả Ratthapala: 

— Thưa tôn mẫu, tôn mẫu có biết chăng, cậu ấm (ayyaputta) Ratthapala đã trở về. 

— Nếu ngươi nói đúng sự thật, ngươi sẽ được thoát khỏi phận nô tỳ. 

Rồi mẹ Tôn giả Ratthapala đi đến cha Tôn giả Ratthapala và nói: 

— Thưa gia chủ, gia chủ có biết chăng, thiện nam tử Ratthapala đã trở về. 

 

  1. Just then the venerable Ratthapala was eating the old porridge by the wall of a certain shelter. His father went to him and said:

–“Ratthapala, my dear, surely there is … and you will be eating old porridge!  Is there not your own house to go to?”

–“How could we have a house, householder, when we have gone forth from the home life into homelessness? We are homeless, householder. We went [63] to your house, but we received neither alms nor a polite refusal there; instead we received only abuse.”

–“Come, dear Ratthapala, let us go to the house.”

–“Enough, householder, my meal for today is finished.”

–“Then, dear Ratthapala, consent to accept tomorrow’s meal.” The venerable Ratthapala consented in silence.

Lúc bấy giờ, Tôn giả Ratthapala đang ăn cháo ngày hôm qua ấy, ngồi dựa vào một bức tường. Rồi người cha đến tại chỗ của Tôn giả Ratthapala, sau khi đến liền nói với Tôn giả Ratthapala: 

— Này con thân yêu Ratthapala, có phải con đang ăn cháo ngày hôm qua? Này con thân yêu Ratthapala, con phải vào nhà của con. 

— Thưa gia chủ, chỗ nào là nhà của chúng tôi, những người xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình? Chúng tôi là những người không gia đình, thưa gia chủ ! Chúng tôi có đến nhà của gia chủ, thưa gia chủ, nhưng tại đấy, chúng tôi không nhận được bố thí, không nhận được lời từ chối, chỉ nhận được lời sỉ nhục. 

— Hãy đi vào nhà, này con thân yêu Ratthapala. 

— Thưa gia chủ, thôi vừa rồi ! Hôm nay tôi đã ăn xong. 

— Vậy này con thân yêu Ratthapala, hãy nhận lời mời ngày mai đến dùng cơm. 

Tôn giả Ratthapala im lặng nhận lời.

 

  1. Then, knowing that the venerable Ratthapala had consented, his father went back to his own house where he had gold coins and bullion made into a large heap and covered it with mats. Then he told the venerable Ratthapala’s former wives:

–“Come, daughters-in-law, adorn yourselves with ornaments in the way Ratthapala found you most dear and loveable.”

Rồi người cha của Tôn giả Ratthapala, sau khi được biết Tôn giả Ratthapala đã nhận lời liền về đến nhà của mình, cho chất vàng nén và tiền vàng thành một đống lớn, lấy màn che lại, và cho gọi các người vợ cũ của Tôn giả Ratthapala: 

— Này các con dâu, hãy tự trang điểm với những trang điểm mà xưa kia các con được thiện nam tử Ratthapala ái lạc và ưa thích. 

 

  1. When night had ended, the venerable Ratthapala’s father had good food of various kinds prepared in his own house and had the time announced to the venerable Ratthapala:

–“It is time, dear Ratthapala, the meal is ready.”

Rồi người cha của Tôn giả Ratthapala, sau khi đêm ấy đã mãn, sau khi cho sửa soạn trong nhà của mình, các món ăn thượng vị loại cứng và loại mềm, liền báo giờ cho Tôn giả Ratthapala: 

— Đã đến giờ, này con thân yêu Ratthapala, cơm đã sẵn sàng.

 

  1. Then, it being morning, the venerable Ratthapala dressed, and taking his bowl and outer robe, he went to his own father’s house and sat down on the seat made ready. Then his father had the pile of gold coins and bullion uncovered and said:

–“Dear Ratthapala, this is your maternal fortune; your paternal fortune is another and your ancestral fortune is yet another. Dear Ratthapala, you can enjoy the wealth and make merit. Come then, dear, [64] abandon the training and return to the low life, enjoy the wealth and make merit.”

–“Householder, if you would follow my advice, then have this pile of gold coins and bullion loaded on carts and carried away to be dumped midstream in the river Ganges. Why is that? Because, householder, on account of this there will arise for you sorrow, lamentation, pain, grief, and despair.”

Rồi Tôn giả Ratthapala vào buổi sáng đắp y, cầm bát đi đến ngồi nhà của người cha mình, sau khi đến ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Rồi người cha của Tôn giả Ratthapala cho trình bày ra đống vàng nén và tiền vàng và nói với Tôn giả Ratthapala: 

— Này con thân yêu Ratthapala, đây là tiền tài của mẹ, kia là tiền tài của cha, kia là tiền tài của tổ tiên. Này con thân yêu Ratthapala, con có thể thụ hưởng tài vật và làm các phước đức. Này con thân yêu Ratthapala, hãy từ bỏ tu học, hoàn tục thụ hưởng các tài vật và làm các phước đức. 

— Thưa gia chủ, nếu gia chủ làm theo lời nói của tôi, sau khi chồng chất đống vàng nén và tiền vàng này vào trong các xe, sau khi cho chở và hạ xuống giữa sông Hằng, hãy đổ đống vàng này vào giữa dòng sông. Vì sao vậy? Này gia chủ, vì do nhân duyên này, mà sầu, bi, khổ, ưu, não sẽ khởi lên cho gia chủ. 

 

  1. Then the venerable Ratthapala’s former wives clasped his feet and said to him:

–“What are they like, my lord’s son, the nymphs for whose sake you lead the holy life?”

–“We do not lead the holy life for the sake of nymphs, sisters.”

“Our lord’s son Ratthapala calls us ‘sisters,’“they cried and right there they fainted.

Rồi những người vợ cũ của Tôn giả Ratthapala ôm mỗi chân (Tôn giả) và nói: 

— Thưa phu quân (ayyaputtaka) vì thiên nữ nào mà phu quân sống phạm hạnh? 

— Các bà chị, không phải vì thiên nữ nào mà chúng tôi sống phạm hạnh. 

— Phu quân Ratthapala đối với chúng ta gọi chúng ta là bà chị. 

Nói lên như vậy, (các người vợ cũ) liền ngã xuống đất, bất tỉnh. 

 

  1. Then the venerable Ratthapala told his father:

–“Householder, if there is a meal to be given, then give it. Do not harass us.”

–“Eat then, dear Ratthapala, the meal is ready.”

Then, with his own hands, the venerable Ratthapala’s father served and satisfied him with the various kinds of good food. When the venerable Ratthapala had eaten and had withdrawn his hand from the bowl, he stood up and uttered these stanzas:

Rồi Tôn giả Ratthapala nói với phụ thân: 

— Thưa gia chủ, nếu gia chủ muốn bố thí đồ ăn thời hãy bố thí đi, chớ có phiền nhiễu chúng tôi. 

— Hãy ăn, này con thân yêu Ratthapala, cơm đã sẵn sàng. 

Rồi người cha của Tôn giả Ratthapala tự tay thân mời và làm cho thỏa mãn Tôn giả Ratthapala với các món ăn thượng vị loại cứng và loại mềm. 

Rồi Tôn giả Ratthapala sau khi ăn xong, tay đã rời khỏi bát, đứng dậy và nói bài kệ sau đây: 

 

  1. “Behold a puppet here pranked out

A body built up out of sores,

Sick, an object for concern,

Where no stability abides.

Hãy nhìn hình bóng trang sức này, 
Một nhóm vết thương được tích tụ,
Bệnh nhiều, tham tưởng cũng khá nhiều,
Nhưng không gì kiên cố, thường trú.

 

Behold a figure here pranked out

With jewellery and earrings too,

A skeleton wrapped up in skin,

Made attractive by its clothes.

Hãy nhìn dung mạo trang sức này, 
Với các châu báu, với vòng tai,
Một bộ xương được da bao phủ,
Được y phục làm cho sáng chói. 

 

Its feet adorned with henna dye

And powder smeared upon its face:

It may beguile a fool, but not

A seeker of the further shore. [65]

Chân được sơn với son với sáp, 
Mặt được thoa với phấn, với bột,
Vừa đủ làm mê hoặc kẻ ngu,
Nhưng vô phương kẻ cầu bờ giác. 

 

Its hair is dressed in eightfold plaits

And unguent smeared upon its eyes:

It may beguile a fool, but not

A seeker of the further shore.

Tóc được uốn bảy vòng, bảy lớp, 
Mắt được xoa với thuốc, với son,
Vừa đủ làm mê hoặc kẻ ngu,
Nhưng vô phương kẻ cầu bờ giác. 

 

A filthy body well adorned

Like a new-painted unguent pot:

It may beguile a fool, but not

A seeker of the further shore.

Như hộp thuốc trang hoàng mới mẻ, 
Là uế thân được điểm thời trang,
Vừa đủ làm mê hoặc kẻ ngu,
Nhưng vô phương kẻ cầu bờ giác. 

 

The deer-hunter set out the snare

But the deer did not spring the trap;

We ate the bait and now depart

Leaving the hunters to lament.”

Người thợ săn đặt bày lưới sập, 
Loài nai (khôn) chẳng chạm bén chân,
Ăn lúa xong, chúng ta lên đường,
Mặc cho kẻ bắt nai than khóc. 

 

  1. After the venerable Ratthapala had stood up and uttered these stanzas, he went to King Koravya’s Migacira garden and sat down at the root of a tree for the day’s abiding.

Tôn giả Ratthapala đọc bài kệ xong đứng dậy, liền đi đến vườn Lộc Uyển của vua Koravya, sau khi đến liền ngồi xuống nghỉ trưa dưới một gốc cây.

 

  1. Then King Koravya addressed his gamekeeper thus:

–“Good gamekeeper, tidy up the Migacira Garden so that we may go to the pleasure garden to see a pleasing spot.”

— “Yes, sire,” he replied.

Now while he was tidying up the Migacira Garden, the gamekeeper saw the venerable Ratthapala seated at the root of a tree for the day’s abiding. When he saw him, he went to King Koravya and told him:

–“Sire, the Migacira Garden has been tidied up. The clansman Ratthapala is there, the son of the leading clan in this same Thullakotthita, of whom you have always spoken highly; he is seated at the root of a tree for the day’s abiding.”

–“Then, good Migava, enough of the pleasure garden for today. Now we shall go to pay respects to that Master Ratthapala.”

Rồi vua Koravya nói với người thợ săn: 

— Này thợ Săn, hãy dọn dẹp đất vườn ở Lộc Uyển, ta muốn đi thăm viếng cảnh đẹp. 

— Thưa vâng, Đại vương. 

Người thợ săn vâng đáp vua Koravya, trong khi dọn dẹp vườn Nai, thấy Tôn giả Ratthapala đang ngồi dưới gốc cây để nghỉ trưa. Sau khi thấy vậy, người ấy liền đến vua Koravya, sau khi đến liền tâu vua Koravya: 

— Tâu Đại vương, vườn Nai đã được dọn dẹp. Và ở đấy có thiện nam tử tên là Ratthapala là con một thế gia ở Thullakotthita mà Đại vương thường hay tán thán, vị ấy đang ngồi dưới một gốc cây để nghỉ trưa. 

— Này Thợ săn, hôm nay thế là vừa đủ về vườn cảnh. Nay chúng ta muốn cung kính cúng dường Tôn giả Ratthapala. 

 

  1. Then, saying: “Give away all the food that has been prepared there,” King Koravya had a number of state carriages prepared, and mounting one of them, accompanied by the other carriages, he drove out from Thullakotthita with the full pomp of royalty to see the venerable Ratthapala. He drove thus as far as the road was passable for carriages, and then he dismounted from his carriage and went forward on foot with a following of the most eminent officials to where the venerable Ratthapala was. [66] He exchanged greetings with the venerable Ratthapala, and when this courteous and amiable talk was finished, he stood at one side and said:

–“Here is an elephant rug. Let Master Ratthapala be seated on it.”

–“There is no need, great king. Sit down. I am sitting on my own mat.”

King Koravya sat down on a seat made ready and said:

Rồi vua Koravya, sau khi nói: “Ở đây, hãy đem bố thí tất cả món ăn đã soạn sẵn, loại cứng và loại mềm”, ra lệnh cho thắng nhiều cỗ xe thù thắng, leo lên một cỗ xe thù thắng, liền cùng với các cỗ xe đi ra khỏi Thullakotthita để yết kiến Tôn giả Ratthapala với đại uy phong của bậc đế vương. Sau khi cỡi xe cho đến chỗ đất còn có thể cỡi xe được, Ngài xuống xe, đi bộ, cùng với hàng tùy tùng vương hầu, đến chỗ của Tôn giả Ratthapala, sau khi đến, nói lên những lời chào đón hỏi thăm với Tôn giả Ratthapala, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền đứng một bên. Đứng một bên, vua Koravya bạch Tôn giả Ratthapala: 

— Ở đây xin mời Tôn giả Ratthapala ngồi xuống trên nệm voi. 

— Thôi vừa rồi, Đại vương! Đại vương hãy ngồi. Tôi đã ngồi trên chỗ ngồi của tôi. Rồi vua Koravya ngồi trên chỗ ngồi đã soạn sẵn.

 

  1. “Master Ratthapala, there are four kinds of loss. Because they have undergone these four kinds of loss, some people here shave off their hair and beard, put on the yellow robe, and go forth from the home life into homelessness. What are the four? They are loss through ageing, loss through sickness, loss of wealth, and loss of relatives.

Sau khi ngồi, vua Koravya bạch Tôn giả Ratthapala: 

— Bạch Tôn giả Ratthapala, có bốn sự suy vong này. Chính do thành tựu bốn sự suy vong này mà ở đây, có người cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Thế nào là bốn? Lão suy vong, bệnh suy vong, tài sản suy vong, thân tộc suy vong. 

 

  1. “And what is loss through ageing? Here, Master Ratthapala, someone is old, aged, burdened with years, advanced in life, come to the last stage. He considers thus: ‘I am old, aged, burdened with years, advanced in life, come to the last stage. It is no longer easy for me to acquire unacquired wealth or to augment wealth already acquired. Suppose I shave off my hair and beard, put on the yellow robe, and go forth from the home life into homelessness.’ Because he has undergone that loss through ageing, he shaves off his hair and beard, puts on the yellow robe, and goes forth from the home life into homelessness. This is called loss through ageing. But Master Ratthapala is now still young, a black-haired young man endowed with the blessing of youth, in the prime of life. Master Ratthapala has not undergone any loss through ageing. What has he known or seen or heard that he has gone forth from the home life into homelessness?

Này Tôn giả Ratthapala, thế nào là lão suy vong? Ở đây, thưa Tôn giả Ratthapala có người niên cao, lạp lớn, đã đến tuổi trưởng thượng, đã sống mãn kỳ, đã gần mệnh chung. Vị ấy suy tư như sau: “Nay ta đã già, niên cao lạp lớn, đã đến tuổi trưởng thượng, đã sống mãn kỳ, đã gần mệnh chung. Thật không dễ gì cho ta thâu được các tài vật chưa thâu hoạch được, hay làm tăng trưởng các tài vật đã thâu hoạch. Vậy ta hãy cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình”. Vị này, do thành tựu lão suy vong nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Như vậy, thưa Tôn giả Ratthapala được gọi là lão suy vong. Nhưng Tôn giả Ratthapala nay còn trẻ, niên thiếu, còn thanh niên, tóc đen nhánh, trong tuổi thanh xuân, trong sơ kỳ tuổi đời; Tôn giả Ratthapala đâu có lão suy vong? Vậy Tôn giả Ratthapala đã biết gì, đã thấy gì, hay đã nghe gì mà xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình?

 

  1. “And what is loss through sickness? Here, Master Ratthapala, someone is afflicted, suffering, and gravely ill. He considers thus: ‘I am afflicted, suffering, and gravely ill. It is no longer easy for me to acquire unacquired wealth … [67] … into homelessness.’ Because he has undergone that loss through sickness.. .he goes forth from the home life into homelessness. This is called loss through sickness. But Master Ratthapala now is free from illness and affliction; he possesses a good digestion that is neither too cool nor too warm but medium. Master Ratthapala has not undergone any loss through sickness. What has he known or seen or heard that he has gone forth from the home life into homelessness?

Và thưa Tôn giả Ratthapala, thế nào là bệnh suy vong? Ở đây, thưa Tôn giả Ratthapala, có người bị bệnh, khổ đau, mang trọng bệnh. Vị ấy suy nghĩ như sau: “Ta bị bệnh, khổ đau, mang trọng bệnh, thật không dễ gì cho ta thâu được các tài vật chưa thâu hoạch được, hay làm tăng trưởng các tài vật đã thâu hoạch được. Vậy ta hãy cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình”. Vị này do thành tựu bệnh suy vong nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Như vậy, thưa Tôn giả Ratthapala, được gọi là bệnh suy vong. Nhưng Tôn giả Ratthapala nay ít bệnh, ít não, tiêu hóa được điều hòa, không quá lạnh, không quá nóng; Tôn giả Ratthapala đâu có bệnh suy vong? Tôn giả Ratthapala đã biết gì, đã thấy gì hay đã nghe gì mà xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình? 

 

  1. “And what is loss of wealth? Here, Master Ratthapala, someone is rich, of great wealth, of great possessions. Gradually his wealth dwindles away. He considers thus: ‘Formerly I was rich, of great wealth, of great possessions. Gradually my wealth has dwindled away. It is no longer easy for me to acquire unacquired wealth … into homelessness.’ Because he has undergone that loss of wealth … he goes forth from the home life into homelessness. This is called loss of wealth. But Master Ratthapala is the son of the leading clan in this same Thullakotthita. Master Ratthapala has not undergone any loss of wealth. What has he known or seen or heard that he has gone forth from the home life into homelessness?

Và thưa Tôn giả Ratthapala, thế nào là tài sản suy vong? Ở đây, thưa Tôn giả Ratthapala có người giàu sang, tiền của nhiều, tài vật nhiều, và những tài vật của vị ấy dần dần đi đến chỗ suy vong. Vị ấy suy nghĩ như sau: “Ta trước đây giàu sang, tiền của nhiều, tài sản nhiều. Những tài vật ấy của ta dần dần đã đi đến suy vong. Thật không dễ gì cho ta thâu được những tài vật chưa thâu hoạch được, hay làm cho tăng trưởng những tài vật đã thâu hoạch được. Vậy ta hãy cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình”. Vị này do thành tựu tài suy vong nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Như vậy, thưa Tôn giả Ratthapala được gọi là tài suy vong. Nhưng Tôn giả Ratthapala chính tại Thullakotthita này, là con của một lương gia đệ nhất; Tôn giả Ratthapala đâu có tài sản suy vong? Tôn giả Ratthapala đã biết gì, đã thấy gì, hay đã nghe gì mà xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình? 

 

  1. “And what is loss of relatives? Here, Master Ratthapala, someone has many friends and companions, kinsmen and relatives. Gradually those relatives of his dwindle away. He considers thus: ‘Formerly I had many friends and companions, kinsmen and relatives. Gradually those relatives of mine have dwindled away. It is no longer easy for me to acquire unacquired wealth … [68] … into homelessness.’ Because he has undergone that loss of relatives … he goes forth from the home life into homelessness. This is called loss of relatives. But Master Ratthapala has many friends and companions, kinsmen and relatives, in this same Thullakotthita. Master Ratthapala has not undergone any loss of relatives. What has he known or seen or heard that he has gone forth from the home life into homelessness?

Và này Tôn giả Ratthapala, thế nào là thân tộc suy vong? Ở đây, thưa Tôn giả Ratthapala có người có nhiều thân hữu quen biết, bà con huyết thống, những thân hữu quyến thuộc của người ấy dần dần đi đến chỗ suy vong. Người ấy suy tư như sau: “Trước kia, ta có nhiều người thân hữu quen biết, bà con huyết thống. Những thân hữu quyến thuộc ấy của ta dần dần đi đến chỗ suy vong. Thật không dễ gì cho ta thâu được những tài vật chưa thâu hoạch được, hay làm cho tăng trưởng những tài vật đã thâu hoạch được. Vậy ta hãy cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình”. Vị này do thành tựu thân tộc suy vong nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Như vậy, thưa Tôn giả Ratthapala, được gọi là thân tộc suy vong. Nhưng Tôn giả Ratthapala ở chính tại Thullakotthita này, có nhiều thân hữu quen biết, bà con huyết thống, Tôn giả Ratthapala đâu có thân tộc suy vong? Vậy Tôn giả Ratthapala đã biết gì, đã thấy gì hay đã nghe gì mà xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình? 

 

  1. “Master Ratthapala, these are the four kinds of loss. Because they have undergone these four kinds of loss, some people here shave off their hair and beard, put on the yellow robe, and go forth from the home life into homelessness. Master Ratthapala has not undergone any of these. What has he known or seen or heard that he has gone forth from the home life into homelessness?”

Thưa Tôn giả Ratthapala, đây là bốn loại suy vong, do thành tựu bốn loại suy vong này mà ở đây, có người cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình; Tôn giả Ratthapala đâu có những loại ấy? Vậy Tôn giả đã biết gì, đã thấy gì, hay đã nghe gì mà xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình? 

 

  1. “Great king, there are four summaries of the Dhamma that have been taught by the Blessed One who knows and sees, accomplished and fully enlightened. Knowing and seeing and hearing them, I went forth from the home life into homelessness. What are the four?

— Thưa Đại vương, có bốn sự thuyết giáo Chánh pháp, được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác giảng dạy. Do tôi biết, tôi thấy và tôi nghe thuyết giáo ấy, mà tôi xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Thế nào là bốn? 

 

  1. (1) “‘[Life in] any world is unstable, it is swept away’: this is the first summary of the Dhamma taught by the Blessed One who knows and sees, accomplished and fully enlightened. Knowing and seeing and hearing this, I went forth from the home life into homelessness.

“Thế giới là vô thường, đi đến hủy diệt”, thưa Đại vương, đó là thuyết giáo Chánh pháp thứ nhất, do Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, thuyết giảng. Do tôi biết, tôi thấy và tôi nghe thuyết giáo ấy, mà tôi xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. 

 

(2) “‘[Life in] any world has no shelter and no protector’:  this is the second summary of the Dhamma taught by the Blessed One who knows and sees …

“Thế giới là vô hộ, vô chủ”, thưa Đại vương, đó là thuyết giáo Chánh pháp thứ hai, do Thế Tôn, bậc Tri Giả. Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác thuyết giảng. Do tôi biết, tôi thấy và tôi nghe thuyết giáo ấy, mà tôi xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình. 

 

(3) “‘[Life in] any world has nothing of its own; one has to leave all and pass on’:  this is the third summary of the Dhamma taught by the Blessed One who knows and sees …

“Thế giới là vô sở hữu, ra đi cần phải từ bỏ tất cả”, thưa Đại vương đó là thuyết giáo Chánh pháp thứ ba, do Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác thuyết giảng. Do tôi biết, tôi thấy, tôi nghe thuyết giáo ấy, mà tôi xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình. 

 

(4) “‘[Life in] any world is incomplete, insatiate, the slave of craving’:  this is the fourth summary of the Dhamma taught by the Blessed One who knows and sees …

“Thế giới là thiếu thốn, khao khát, nô lệ cho tham ái”, thưa Đại vương, đó là thuyết giáo Chánh pháp thứ tư, do Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác thuyết giảng. Do tôi biết, tôi thấy, tôi nghe thuyết giáo ấy, mà tôi xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình. 

 

  1. “Great king, these are the four summaries of the Dhamma that have been taught by the Blessed One who knows and sees, accomplished and fully enlightened. [69] Knowing and seeing and hearing them, I went forth from the home life into homelessness.”

Thưa Đại vương, đây là bốn sự thuyết giáo Chánh pháp, được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác giảng dạy. Do tôi biết, tôi thấy và tôi nghe thuyết giáo ấy, mà tôi xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình. 

 

  1. “Master Ratthapala said: ‘[Life in] any world is unstable, it is swept away.’ How should the meaning of that statement be understood?”

–“What do you think, great king? When you were twenty or twenty-five years old, were you an expert rider of elephants, an expert horseman, an expert charioteer, an expert archer, an expert swordsman, strong in thighs and arms, sturdy, capable in battle?”

–“When I was twenty or twenty-five years old, Master Ratthapala, I was an expert rider of elephants … strong in thighs and arms, sturdy, capable in battle. Sometimes I wonder if I had supernormal power then. I do not see anyone who could equal me in strength.”

–“What do you think, great king? Are you now as strong in thighs and arms, as sturdy and as capable in battle?”

–“No, Master Ratthapala. Now I am old, aged, burdened with years, advanced in life, come to the last stage; my years have turned eighty. Sometimes I mean to put my foot here and I put my foot somewhere else.”

–“Great king, it was on account of this that the Blessed One who knows and sees, accomplished and fully enlightened, said: ‘[Life in] any world is unstable, it is swept away’; and when I knew and saw and heard this, I went forth from the home life into homelessness.”

–“It is wonderful, Master Ratthapala, it is marvellous how well that has been expressed by the Blessed One who knows and sees, accomplished and fully enlightened: ‘[Life in] any world is unstable, it is swept away.’ It is indeed so!

— Tôn giả Ratthapala đã nói: “Thế giới là vô thường đi đến hủy diệt,” ý nghĩa của lời nói này cần phải được hiểu như thế nào, thưa Tôn giả Ratthapala? 

— Thưa Đại vương, Đại vương nghĩ thế nào? Khi Ngài 20 tuổi, hay 25 tuổi, Ngài có thiện nghệ về voi, thiện nghệ về ngựa, thiện nghệ về xe, thiện nghệ về cung, thiện nghệ về kiếm, bắp vế mạnh và cánh tay mạnh, có khả năng và thiện nghệ trong nghề đánh giặc? 

— Thưa Tôn giả Ratthapala, khi tôi được 20 hay 25 tuổi, tôi thiện nghệ về voi, tôi thiện nghệ về ngựa, thiện nghệ về xe, thiện nghệ về cung, thiện nghệ về kiếm, bắp vế mạnh, và cánh tay mạnh, có khả năng và thiện nghệ trong nghề đánh giặc. Có đôi lúc, thưa Tôn giả Ratthapala, tôi cảm thấy có thần lực và xem không ai có thể bằng tôi về sức mạnh. 

— Thưa Đại vương, Đại vương nghĩ thế nào? Nay Đại vương vẫn còn bắp vế mạnh, cánh tay mạnh, có khả năng và thiện nghệ đánh giặc như vậy không? 

— Không như vậy, thưa Tôn giả Ratthapala, nay tôi đã già, niên cao, lạp lớn, đã đến tuổi trưởng thượng, đã sống mãn kỳ, đã gần mệnh chung, gần 80 tuổi thọ. Có đôi lúc, thưa Tôn giả Ratthapala, tôi nghĩ: “Ở đây, ta sẽ bước chân”, nhưng tôi lại bước chân tại chỗ khác. 

— Chính liên hệ với nghĩa này, này Đại vương mà Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đã nói: “Thế giới là vô thường, đi đến hủy diệt”, và tôi sau khi biết, sau khi thấy và sau khi nghe như vậy đã xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình. 

— Thật vi diệu thay, Tôn Giả Ratthapala! Thật hy hữu thay, Tôn giả Ratthapala! Ý nghĩa này được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, Bậc A la hán, Chánh Đẳng Giác đã khéo nói: “Thế giới là vô thường, đi đến hủy diệt”. Thật vậy, thưa Tôn giả Ratthapala, thế giới là vô thường, đi đến hủy diệt. 

 

  1. “Master Ratthapala, there exist in this court elephant troops and cavalry and chariot troops and infantry, which will serve to subdue any threats to us. [70] Now Master Ratthapala said: ‘[Life in] any world has no shelter and no protector.’ How should the meaning of that statement be understood?”

–“What do you think, great king? Do you have any chronic ailment?”

–“I have a chronic wind ailment, Master Ratthapala. Sometimes my friends and companions, kinsmen, and relatives, stand around me, thinking: ‘Now King Koravya is about to die, now King Koravya is about to die!’“

–“What do you think, great king? Can you command your friends and companions, your kinsmen and relatives: ‘Come, my good friends and companions, my kinsmen and relatives. All of you present share this painful feeling so that I may feel less pain’? Or do you have to feel that pain yourself alone?”

–“I cannot command my friends and companions, my kinsmen and relatives thus, Master Ratthapala. I have to feel that pain alone.”

–“Great king, it was on account of this that the Blessed One who knows and sees, accomplished and fully enlightened, said: ‘[Life in] any world has no shelter and no protector’; and when I knew and saw and heard this, I went forth from the home life into homelessness.”

–“It is wonderful, Master Ratthapala, it is marvellous how well that has been expressed by the Blessed One who knows and sees, accomplished and fully enlightened: ‘[Life in] any world has no shelter and no protector.’ It is indeed so!

Nhưng thưa Tôn giả Ratthapala, ở vương quốc này, có đội quân voi, cũng có đội quân ngựa, cũng có đội quân xa, cũng có đội quân bộ, nếu chúng tôi gặp nguy khốn thời các đội quân bảo vệ chúng tôi. Tôn giả Ratthapala đã nói: “Thế giới là vô hộ, vô chủ”, ý nghĩa của lời nói này, cần phải được hiểu như thế nào, thưa Tôn giả Ratthapala? 

— Thưa Đại vương, Đại vương nghĩ thế nào? Đại vương có mắc chứng bệnh kinh niên nào không? 

— Thưa Tôn giả Ratthapala, tôi có bệnh phong kinh niên. Nhiều khi, thân hữu quen biết, bà con huyết thống đứng xung quanh tôi và nói: “Nay vua Koravya sẽ mệnh chung, nay vua Koravya sẽ mệnh chung”.

— Thưa Đại vương, Đại vương nghĩ thế nào? Đại vương có thể nói chăng, với các thân hữu quen biết, bà con huyết thống của Đại vương: “Mong rằng Tôn giả thân hữu quen biết, bà con huyết thống làm vơi nhẹ sự đau khổ của tôi! Mong tất cả hãy san sẻ cảm thọ này, để tôi có thể có một cảm thọ nhẹ nhàng hơn”; hay là Đại vương chỉ có thể thọ lãnh cảm thọ ấy một mình? 

— Thưa Tôn giả Ratthapala, tôi không có thể nói với các thân hữu quen biết, bà con huyết thống của tôi: “Mong rằng các Tôn giả thân hữu quen biết, bà con huyết thống làm vơi nhẹ sự đau khổ của tôi. Mong tất cả hãy san sẻ cảm thọ này để có thể có một cảm thọ nhẹ nhàng hơn”; và tôi chỉ có thể thọ lãnh cảm thọ ấy một mình”. 

— Chính liên hệ với nghĩa này, này Đại vương mà Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đã nói: “Thế giới là vô hộ, vô chủ”, và tôi sau khi biết, sau khi thấy và sau khi nghe như vậy đã xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình. 

— Thật vi diệu thay, Tôn giả Ratthapala! Thật hy hữu thay, Tôn giả Ratthapala! Ý nghĩa này được Thế Tôn bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đã khéo nói: “Thế giới là vô hộ, vô chủ”. Thật vậy, thưa Tôn giả Ratthapala, thế giới là vô hộ, vô chủ. 

 

  1. “Master Ratthapala, there exist in this court abundant gold coins and bullion stored away in vaults and depositories. Now Master Ratthapala said: ‘[Life in] any world has nothing of its own; one has to leave all and pass on.’ How should the meaning of that statement be understood?”

–“What do you think, great king? You now [71] enjoy yourself provided and endowed with the five cords of sensual pleasure, but will you be able to have it of the life to come: ‘Let me likewise enjoy myself provided and endowed with these same five cords of sensual pleasure’? Or will others take over this property, while you will have to pass on according to your actions?”

–“I cannot have it thus of the life to come, Master Ratthapala. On the contrary, others will take over this property while I shall have to pass on according to my actions.”

–“Great king, it was on account of this that the Blessed One who knows and sees, accomplished and fully enlightened, said: ‘[Life in] any world has nothing of its own; one has to leave all and pass on’; and when I knew and saw and heard this, I went forth from the home life into homelessness.”

–“It is wonderful, Master Ratthapala, it is marvellous how well that has been expressed by the Blessed One who knows and sees, accomplished and fully enlightened: ‘[Life in] any world has nothing of its own; one has to leave all and pass on.’ It is indeed so!

Nhưng thưa Tôn giả Ratthapala, ở vương quốc này có rất nhiều vàng nén và tiền vàng dưới đất và trên mặt đất”. Tôn giả Ratthapala đã nói: “Thế giới là vô sở hữu, ra đi cần phải từ bỏ tất cả”. Ý nghĩa của lời nói này cần phải được hiểu như thế nào, thưa Tôn giả Ratthapala? 

— Thưa Đại vương, Đại vương nghĩ thế nào? Dầu cho nay Đại vương sống thụ hưởng mãn túc, cụ túc năm món dục trưởng dưỡng, Đại vương có thể nói được như sau: “Chính như vậy, tôi thọ hưởng mãn túc, cụ túc năm món dục trưởng dưỡng này”; hay là người khác sẽ thọ hưởng tài sản này, còn Đại vương sẽ phải đi theo nghiệp của mình? 

— Thưa Tôn giả Ratthapala, dầu cho nay tôi sống thụ hưởng mãn túc, cụ túc năm món dục trưởng dưỡng. Tôi không có thể nói được như sau: “Chính như vậy tôi thọ hưởng mãn túc, cụ túc năm món dục trưởng này”. Chính người khác sẽ thọ hưởng tài sản này, còn tôi phải đi theo nghiệp của tôi. 

— Chính liên hệ với nghĩa này, này Đại vương, mà Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đã nói: “Thế giới là vô sở hữu, cần phải ra đi, từ bỏ tất cả”. Và tôi sau khi biết, sau khi thấy và sau khi nghe như vậy, đã xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình. 

— Thật vi diệu thay, Tôn giả Ratthapala! Thật hy hữu thay, Tôn giả Ratthapala! Ý nghĩa này được Thế Tôn bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đã khéo nói: “Thế giới là vô sở hữu, cần phải ra đi, từ bỏ tất cả”. Thật vậy thưa Tôn giả Ratthapala thế giới là vô sở hữu, cần phải ra đi, từ bỏ tất cả. 

 

  1. “Now Master Ratthapala said: ‘[Life in] any world is incomplete, insatiate, the slave of craving.’ How should the meaning of that statement be understood?”

–“What do you think, great king? Do you reign over the rich Kuru country?”

–“Yes, Master Ratthapala, I do.”

–“What do you think, great king? Suppose a trustworthy and reliable man came to you from the east and said: ‘Please know, great king, that I have come from the east, and there I saw a large country, powerful and rich, very populous and crowded with people. There are plenty of elephant troops there, plenty of cavalry, chariot troops and infantry; there is plenty of ivory there, and plenty of gold coins and bullion both unworked and worked, and plenty of women for wives. With your present forces you can conquer it. Conquer it then, great king.’ What would you do?” [72]

–“We would conquer it and reign over it, Master Ratthapala.”

–“What do you think, great king? Suppose a trustworthy and reliable man came to you from the west … from the north … from the south and said: ‘Please know, great king, that I have come from the south, and there I saw a large country, powerful and rich … Conquer it then, great king.’ What would you do?”

–“We would conquer it too and reign over it, Master Ratthapala.”

–“Great king, it was on account of this that the Blessed One who knows and sees, accomplished and fully enlightened, said: ‘[Life in] any world is incomplete, insatiate, the slave of craving’; and when I knew and saw and heard this, I went forth from the home life into homelessness.”

–“It is wonderful, Master Ratthapala, it is marvellous how well that has been expressed by the Blessed One who knows and

sees, accomplished and fully enlightened: ‘[Life in] any world is incomplete, insatiate, the slave of craving.’ It is indeed so!”

Tôn giả Ratthapala đã nói: “Thế giới là thiếu thốn, khao khát, nô lệ cho tham ái”. Ý nghĩa của lời nói này cần phải được hiểu như thế nào, thưa Tôn giả Ratthapala? 

— Thưa Đại vương, Đại vương nghĩ thế nào? Có phải Đại vương trị vì ở Kuru, một nước phồn thịnh? 

— Thưa vâng, Tôn giả Ratthapala. Tôi trị vì ở Kuru, một nước phồn thịnh. 

— Thưa Đại vương, Đại vương nghĩ thế nào? Nếu có người đáng tin cậy, chánh trực đến với Đại vương từ phương Đông, và sau khi đến tâu với Đại Vương: “Tâu Đại vương, Đại vương có biết chăng? Tôi từ phương Đông lại. Ở đấy, tôi có thấy một quốc độ lớn, phú cường, phồn thịnh, dân cư trù mật. Tại đấy có nhiều đội voi, đội ngựa, đội xe, bộ đội. Tại đấy có nhiều ngà voi, tại đấy có nhiều vàng nén, tiền vàng chưa làm và đã làm, có nhiều phụ nữ. Và có thể chinh phục quốc độ ấy với vũ lực như thế ấy. Tâu Đại vương, hãy đi chinh phục !” Đại vương sẽ hành động như thế nào? 

— Thưa Tôn giả Ratthapala, sau khi chinh phục, quốc độ ấy tôi sẽ trị vì. 

— Thưa Đại vương, Đại vương nghĩ thế nào? Ở đây có người đến với Đại vương từ phương Tây … từ phương Bắc … từ phương Nam … từ bờ biển bên kia, người ấy đáng tin cậy, chánh trực, tâu với Đại vương: “Tâu Đại vương, Đại vương có biết chăng? Tôi từ bờ biển bên kia lại. Ở đây, tôi thấy có một quốc độ lớn, phú cường, phồn thịnh, dân cư trù mật. Tại đấy có nhiều đội voi, đội ngựa, đội xe, bộ đội. Tại đấy có nhiều ngà voi. Tại đấy có nhiều vàng nén, tiền vàng chưa làm và đã làm, có nhiều phụ nữ. Và có thể chinh phục quốc độ ấy với vũ lực như thế ấy. Tâu Đại vương , hãy đi chinh phục”. Đại vương sẽ hành động như thế nào?

— Thưa Tôn giả Ratthapala, sau khi chinh phục, tôi sẽ trị vì. 

— Chính liên hệ với nghĩa này, này Đại vương mà Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đã nói: “Thế giới là thiếu thốn, khao khát, nô lệ cho tham ái, ” và tôi sau khi biết, sau khi thấy, sau khi nghe như vậy, đã xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình. 

— Thật vi diệu thay, Tôn giả Ratthapala! Thật hy hữu thay, Tôn giả Ratthapala! Ý nghĩa này được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đã khéo nói: “Thế giới là thiếu thốn, khao khát, nô lệ cho tham ái”. Thật vậy, thưa Tôn giả Ratthapala, thế giới là thiếu thốn, khao khát, nô lệ cho tham ái. 

 

  1. That is what the venerable Ratthapala said. And having said that he said further:

“I see men wealthy in the world, who yet

From ignorance give not their gathered wealth.

Greedily they hoard away their riches

Longing still for further sensual pleasures.

Ta thấy người giàu sang ở đời, 
Có của vì si không bố thí.
Vì tham, họ tích tụ tài vật,
Và chạy theo dục vọng càng nhiều. 

 

A king who has conquered the earth by force

And rules over the land the ocean bounds

Is yet unsated with the sea’s near shore

And hungers for its further shore as well. [73]

Dùng bạo lực, chinh phục quả đất, 
Vua trị vì cho đến hải biên,
Không thỏa mãn bờ biển bên này,
Và chạy theo bờ biển bên kia. 

 

Most other people too, not just a king,

Encounter death with craving unabated;

[With plans] still incomplete they leave the corpse;

Desires remain unsated in the world.

Vua cùng rất nhiều loại người khác, 
Ái chưa ly, mạng chung đã đến,
Bị thiếu thốn, không bỏ thân họ,
Không thỏa mãn lòng dục ở đời. 

 

His relatives lament and rend their hair,

Crying, ‘Ah me! Alas! Our love is dead!’

They bear away the body wrapped in shrouds

To place it on a pyre and burn it there.

Quyến thuộc tán loạn, khóc người ấy: 
“Than ôi, người ấy không bất tử ! “.
Mạng thân người ấy vải bao phủ,
Họ đốt lửa làm lễ hỏa thiêu. 

 

Clad in a shroud, he leaves his wealth behind,

Prodded with stakes he burns [upon the pyre].

And as he dies, no relatives or friends

Can offer him shelter and refuge here.

Bị thọc với cây, người ấy cháy, 
Độc mảnh vải, bỏ tiền của lại.
Ở đây, quyến thuộc cùng thân hữu,
Không nơi nương tựa cho kẻ chết. 

 

While his heirs take over his wealth, this being

Must pass on according to his actions;

And as he dies nothing can follow him;

Not child nor wife nor wealth nor royal estate.

Kẻ thừa tự, nhận mang tài sản, 
Riêng con người, theo nghiệp phải đi,
Tiền của đâu có theo người chết,
Cả vợ con, tài sản, quốc độ. 

 

Longevity is not acquired with wealth

Nor can prosperity banish old age;

Short is this life, as all the sages say,

Eternity it knows not, only change.

Tài sản không mua được trường thọ, 
Phú quý không tránh được già suy,
Kẻ trí nói đời này thật ngắn,
Thật vô thường, biến đổi luôn luôn. 

 

The rich and poor alike shall feel [Death’s] touch,

The fool and sage as well shall feel it too;

But while the fool lies stricken by his folly,

No sage will ever tremble at the touch.

Kẻ giàu, kẻ nghèo đều cảm xúc, 
Người ngu, kẻ trí đồng cảm thọ,
Kẻ ngu bị ngu đánh nằm ngã,
Bậc trí cảm xúc, không run sợ. 

 

Better is wisdom here than any wealth,

Since by wisdom one gains the final goal.

For people through ignorance do evil deeds

While failing to reach the goal from life to life.

Do vậy, trí tuệ thắng tài vật, 
Nhờ trí, ở đây được viên thành.
Không thành mãn trong hữu, phi hữu,
Kẻ ngu tạo tác các ác nghiệp. 

 

As one goes to the womb and the next world,

Renewing the successive round of births,

Another of little wisdom, trusting him,

Goes also to the womb and the next world. [74]

Nhập thai thác sanh thế giơùi khác, 
Người ấy luân hồi, tiếp tục sanh,
Kẻ thiểu trí chắc hẳn phải là
Nhập thai và sanh thế giới khác. 

 

Just as a robber caught in burglary

Is made to suffer for his evil deed,

So people after death, in the next world,

Are made to suffer for their evil deeds.

Như kẻ trộm bị bắt khi trộm, 
Ác tánh hại mình do tự nghiệp,
Chúng sanh cũng vậy chết đời khác,
Ác tánh hại mình, do tự lực. 

 

Sensual pleasures, varied, sweet, delightful,

In many different ways disturb the mind:

Seeing the danger in these sensual ties

I chose to lead the homeless life, O King.

Dục vọng nhiều loại, ngọt, khả ái, 
Nhiễu loạn tâm dưới nhiều hình thức,
Thấy hoạn nạn trong dục trưởng dưỡng,
Nên tôi xuất gia, tâu Đại vương ! 

 

As fruits fall from the tree, so people too,

Both young and old, fall when this body breaks.

Seeing this too, O King, I have gone forth:

Better is the recluse’s life assured.”

Như quả từ đây, người bị rụng, 
Cả già lẫn trẻ, khi thân hoại,
Do thấy chính vậy, tôi xuất gia,
Hạnh Sa-môn phải là tối thắng, 

Thưa Đại vương! 

 

Sources:

Tài liệu tham khảo:

  1. http://thuvienhoasen.org/p15a902/82-kinh-ratthapala-ratthapala-sutta
  2. http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/mn/
  3. http://lirs.ru/lib/sutra/The_Middle_Length_Discourses(Majjhima_Nikaya), Nanamoli, Bodhi, 1995.pdf