75. Tuệ Giác Tam Minh – The three Supreme Knowledges – Song ngữ

Buddha Dharma Lessons

Bài học Phật Pháp

English: Collected Anonymous Pāramī Lectures

Việt ngữ: Thiện Tri Thức Ba La Mật

Compile: Lotus group

  1. Tuệ Giác Tam Minh – The three Supreme Knowledges – Song ngữ

Anathanpindika offered a staggering fortune in gold to buy Jetavana park as “dana” to the Buddha and the Sangha community.

 

I have heard that: on one occasion the Blessed One was staying at Savatthi, in Jeta’s Grove, Anathapindika’s monastery. There he addressed the monks: “Monks!”

“Yes, lord,” the monks replied.

Tôi nghe như vầy: một thời Thế Tôn ở kinh đô thành Savatthi (Xá-vệ) của nước Kosala (Kiều-tát-la), tại tịnh xá Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn nhà ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Tại đây, Thế Tôn thuyết pháp cho quí tăng: “Này các chư vị Tỳ Kheo”. –“Dạ thưa vâng”, chúng con đây thưa Thế Tôn.

 

The Blessed One said:

“Monks, before my self-awakening, when I was still just an unawakened Bodhisattva, the thought occurred to me: ‘Why don’t I keep dividing my thinking into two sorts?’ So, I made thinking imbued with sensuality, thinking imbued with ill-will, & thinking imbued with harmfulness one sort, and thinking imbued with renunciation, thinking imbued with non-ill-will, & thinking imbued with harmlessness another sort.

Thế Tôn thuyết giảng như sau:

— Này các chư vị Tỳ Kheo, trước khi giác ngộ, khi đó Ta chưa thành Chánh Giác và vẫn còn là một Bồ-tát, Ta suy nghĩ như sau: “Tại sao mình không chia sự suy nghĩ ra làm hai nhóm tâm: duc tầm và ly dục tầm? Cứ thế, Ta chia ra nhóm tâm thứ nhất – ta gọi là “dục tầm” – bao gồm:  tham dục và sân hận ác-ý – có người còn gọi là tâm hửu lậu vậy, còn nhóm thứ nhì là – ly dục tầm – thì ngược lại – có nghĩa là: không có tham dục và sân hận ác-ý – hay còn gọi là tâm vô lậu.

 

“And as I remained thus heedful, ardent, & resolute, thinking imbued with sensuality arose in me. I discerned that: thinking imbued with sensuality has arisen in me; and that leads to my own affliction or to the affliction of others or to the affliction of both. It obstructs discernment, promotes vexation, & does not lead to Unbinding”.

“Này các chư vị Tỳ Kheo, rồi Ta giữ vững tâm trong tỉnh giác – sống trong chánh niệm, tinh tấn kiên trì, và nhất quyết kiên định. Khi tâm dục tầm khởi lên, Ta nhận thức rỏ: “tâm hửu lậu này đã và đang khởi lên nơi Ta; nó sẽ đưa đến làm hại mình, hại người – và sẽ đưa đến làm hại hết cả hai – ta và người. Nó che mờ đi sự sáng suốt – diệt đi trí tuệ, dự phần làm tăng thêm phiền não, và không đưa đến sự giải thoát – nhập Niết-bàn”.

 

“As I noticed that it leads to my own affliction, it subsided. As I noticed that it leads to the affliction of others… to the affliction of both… it obstructs discernment, promotes vexation, & does not lead to Unbinding, it subsided. Whenever thinking imbued with sensuality had arisen, I simply abandoned it, dispelled it, and wiped it out of existence.

“Này các chư vị Tỳ Kheo, khi Ta nhận biết rằng: Dục tầm này đưa đến tự hại mình, và nó đã biến mất. Này các chư vị Tỳ Kheo, khi Ta nhận biết rằng: Dục tầm này đưa đến hại người, và nó đã biến mất.  Này các chư vị Tỳ Kheo, khi Ta nhận biết rằng: Dục tầm này đưa đến hại cả hai – ta và người, và nó đã biến mất. Chư Tỳ-kheo, khi Ta suy tư rằng: Nó che mờ đi sự sáng suốt – diệt đi trí tuệ, dự phần làm tăng thêm phiền não, và không đưa đến sự giải thoát – nhập Niết-bàn, và nó đã biến mất. Chư Tỳ-kheo, vì thế mà – bất cứ khi nào – khi tâm dục tầm nổi lên, Ta chỉ đơn giản là bỏ nó đi, cùng với xả ly và đoạn tận dục tầm.

 

“And as I remained thus heedful, ardent, & resolute, thinking imbued with ill-will arose in me. I discerned that: thinking imbued with ill-will has arisen in me; and that leads to my own affliction or to the affliction of others or to the affliction of both. It obstructs discernment, promotes vexation, & does not lead to Unbinding.’

“Này các chư vị Tỳ Kheo, rồi Ta tỉnh thức sống trong chánh niệm, tinh tấn kiên trì, và nhất quyết kiên định. Khi tâm sân hận khởi lên. Ta nhận thức rỏ: tâm sân hận hửu lậu này đã và đang khởi lên nơi Ta; nó sẽ đưa đến làm hại mình, hại người – và sẽ đưa đến làm hại hết cả hai – ta và người. Nó che mờ đi sự sáng suốt – diệt đi trí tuệ, dự phần làm tăng thêm phiền não, và không đưa đến sự giải thoát – nhập Niết-bàn”.

 

“As I noticed that it leads to my own affliction, it subsided. As I noticed that it leads to the affliction of others… to the affliction of both… it obstructs discernment, promotes vexation, & does not lead to Unbinding, it subsided. Whenever thinking imbued with ill-will had arisen, I simply abandoned it, dispelled it, and wiped it out of existence”.

“Này các chư vị Tỳ Kheo, khi Ta nhận biết rằng: tâm dục tầm này đưa đến tự hại mình, và nó đã biến mất. Này các chư vị Tỳ Kheo, khi Ta nhận biết rằng: tâm dục tầm này đưa đến hại người, và nó đã biến mất.  Này các chư vị Tỳ Kheo, khi Ta nhận biết rằng: tâm dục tầm này đưa đến hại cả hai – ta và người, và nó đã biến mất. Chư Tỳ-kheo, khi Ta suy tư rằng: nó che mờ đi sự sáng suốt – diệt đi trí tuệ, dự phần làm tăng thêm phiền não, và không đưa đến sự giải thoát – nhập Niết-bàn, và nó đã biến mất. Chư Tỳ-kheo, vì thế mà – bất cứ khi nào – khi tâm dục tầm này nổi lên, Ta chỉ đơn giản là bỏ nó đi, cùng với xả ly và đoạn tận dục tầm”.

 

“And as I remained thus heedful, ardent, & resolute, thinking imbued with harmfulness arose in me. I discerned that: thinking imbued with harmfulness has arisen in me; and that leads to my own affliction or to the affliction of others or to the affliction of both. It obstructs discernment, promotes vexation, & does not lead to Unbinding”.

“Này các chư vị Tỳ Kheo, rồi Ta tỉnh thức sống trong chánh niệm, tinh tấn kiên trì, và nhất quyết kiên định. Khi tâm đi làm hại hửu lậu khởi lên. Ta nhận thức rỏ: tâm đi làm hại hửu lậu này đã và đang khởi lên nơi Ta; nó sẽ đưa đến làm hại mình, hại người – và sẽ đưa đến làm hại hết cả hai – ta và người. Nó che mờ đi sự sáng suốt – diệt đi trí tuệ, dự phần làm tăng thêm phiền não, và không đưa đến sự giải thoát – nhập Niết-bàn”.

 

“As I noticed that it leads to my own affliction, it subsided. As I noticed that it leads to the affliction of others… to the affliction of both… it obstructs discernment, promotes vexation, & does not lead to Unbinding, it subsided. Whenever thinking imbued with harmfulness had arisen, I simply abandoned it, dispelled it, and wiped it out of existence”.

“Này các chư vị Tỳ Kheo, khi Ta nhận biết rằng: tâm dục tầm này đưa đến tự hại mình, và nó đã biến mất. Này các chư vị Tỳ Kheo, khi Ta nhận biết rằng: tâm dục tầm này đưa đến hại người, và nó đã biến mất. Này các chư vị Tỳ Kheo, khi Ta nhận biết rằng: tâm dục tầm này đưa đến hại cả hai – ta và người, và nó đã biến mất. Chư Tỳ-kheo, khi Ta suy tư rằng: nó che mờ đi sự sáng suốt – diệt đi trí tuệ, dự phần làm tăng thêm phiền não, và không đưa đến sự giải thoát – nhập Niết-bàn, và nó đã biến mất. Chư Tỳ-kheo, vì thế mà – bất cứ khi nào – khi tâm dục tầm này nổi lên, Ta chỉ đơn giản là bỏ nó đi, cùng với xả ly và đoạn tận dục tầm”.

 

“Whatever a monk keeps pursuing with his thinking & pondering, that becomes the inclination of his awareness. If a monk keeps pursuing thinking imbued with sensuality, abandoning thinking imbued with renunciation, his mind is bent by that thinking imbued with sensuality. If a monk keeps pursuing thinking imbued with ill-will, abandoning thinking imbued with Non-ill-will, his mind is bent by that thinking imbued with ill-will. If a monk keeps pursuing thinking imbued with harmfulness, abandoning thinking imbued with harmlessness, his mind is bent by that thinking imbued with harmfulness”.

“Này các chư vị Tỳ Kheo, nếu quí Tỳ-kheo suy tư – quán chiếu nhiều – bận chạy theo mộng tưởng, thì sự tỉnh giác của chư vị sẽ bị giảm đi. Khi đó, nếu chư vị đã quán chiếu nhiều về tâm dục tầm – thời tâm vị ấy có khuynh hướng bị tiêm nhiểm bởi tâm dục tầm. Nếu chư vị đã quán chiếu nhiều về tâm ly dục tầm – thời tâm vị ấy có khuynh hướng không bị tiêm nhiểm bởi tâm dục tầm – gần mực thì đen, gần đèn thì sáng là nghĩa như vậy”.

 

“Just as in the last month of the rains, in the autumn season when the crops are ripening, a cowherd would look after his cows: he would tap & poke & check & curb them with a stick on this side & that. Why is that? Because he foresees flogging or imprisonment or a fine or public censure arising from that [if he let his cows wander into the crops]. In the same way, I foresaw in unskillful qualities drawbacks, degradation, & defilement, and I foresaw in skillful qualities rewards related to renunciation & promoting cleansing”.

“Này các chư vị Tỳ Kheo, ví như – vào cuối tháng mùa mưa, về mùa thu, khi lúa đã chín vàng ngoài đồng ruộng, và ví như – một người mục đồng chăn bò, cầm roi quất các con bò bên này, đánh bên kia, chế ngự chúng, ngăn chận chúng. Vì sao vậy? Bởi vì người mục đồng thấy được trước: nếu đàng bò dẩm lên đồng lúa – do nhân duyên này, có thể làm cậu bị phạt đánh bằng roi, bị đi ngồi tù, đóng tiền phạt, hay cả sự khiển trách của quần chúng. Chư Tỳ kheo, cũng dống như vậy, Ta đã thấy sự nguy hại, sự hạ liệt, sự uế nhiễm của các pháp bất thiện, và Ta đã thấy được tâm Phật của chúng sanh – liên hệ với tâm ly dục, và sự thanh tịnh của các thiện pháp”.

 

“And as I remained thus heedful, ardent, & resolute, thinking imbued with renunciation arose in me. I discerned that ‘Thinking imbued with renunciation has arisen in me; and that leads neither to my own affliction, nor to the affliction of others, nor to the affliction of both. It fosters discernment, promotes lack of vexation, & leads to Unbinding”.

“Này các chư vị Tỳ Kheo, rồi Ta tỉnh thức sống trong chánh niệm, tinh tấn kiên trì, và nhất quyết kiên định. Khi tâm ly dục vô lậu khởi lên, Ta nhận thức rỏ: “tâm ly dục này đã và đang khởi lên nơi Ta; nó sẽ không đưa Ta đến làm hại mình, hại người – và sẽ không đưa đến làm hại cả hai – ta và người. Nó sẽ làm tăng trưởng trí tuệ, dự phần làm giãm đi phiền não, và sẽ đưa đến sự giải thoát – nhập Niết-bàn”.

 

If I were to think & ponder in line with that even for a night… even for a day… even for a day & night, I do not envision any danger that would come from it, except that thinking & pondering a long time would tire the body. When the body is tired, the mind is disturbed; and a disturbed mind is far from concentration.’ So I steadied my mind right within, settled, unified, & concentrated it. Why is that? So that my mind would not be disturbed.

Này các chư vị Tỳ Kheo, nếu ban đêm – Ta suy tư, quán chiếu về tâm ly dục tầm – Ta không hình dung được sự nguy cơ đến từ nhân duyên ấy. Này các chư vị Tỳ Kheo, nếu ban ngày – Ta suy tư, quán chiếu về tâm ly dục tầm – Ta không hình dung được sự nguy cơ đến từ nhân duyên ấy.  Này các chư vị Tỳ Kheo, nếu ban đêm, và ban ngày – Ta suy tư, quán chiếu về tâm ly dục tầm – Ta không hình dung được sự nguy cơ đến từ nhân duyên ấy. Ngoại trừ, khi Ta suy tư, quán chiếu quá lâu, có thể làm thân Ta bị mệt mỏi; khi thân bị mệt mỏi – thì tâm Ta bị dao động; khi tâm Ta bị dao động – thì lúc đó – tâm Ta rất khó được định tĩnh. Chư Tỳ-kheo, rồi tự trong nội thân -Ta trấn an tâm, ổn định tư tưởng, tâm được hợp nhất, và khiến tâm Ta được tập trung. Tại sao vậy? vì làm như thế sẽ không làm tâm Ta bị dao động.

 

“And as I remained thus heedful, ardent, & resolute, thinking imbued with non-ill-will arose in me. I discerned that ‘Thinking imbued with non-ill-will has arisen in me; and that leads neither to my own affliction, nor to the affliction of others, nor to the affliction of both. It fosters discernment, promotes lack of vexation, & leads to Unbinding.

Này các chư vị Tỳ Kheo, rồi Ta tỉnh thức sống trong chánh niệm, tinh tấn kiên trì, và nhất quyết kiên định. Khi tâm không sân hận khởi lên, Ta nhận thức rỏ: “tâm không sân hận – vô lậu – ly dục tầm này đã và đang khởi lên nơi Ta; nó sẽ không đưa đến làm hại mình, hại người – và sẽ không đưa đến làm hại hết cả hai. Nó sẽ không che mờ đi sự sáng suốt – Nó sẽ làm tăng trưởng trí tuệ, dự phần làm giãm đi phiền não, và sẽ đưa đến sự giải thoát – nhập Niết-bàn.

 

If I were to think & ponder in line with that even for a night… even for a day… even for a day & night, I do not envision any danger that would come from it, except that thinking & pondering a long time would tire the body. When the body is tired, the mind is disturbed; and a disturbed mind is far from concentration.’ So I steadied my mind right within, settled, unified, & concentrated it. Why is that? So that my mind would not be disturbed.

Này các chư vị Tỳ Kheo, nếu ban đêm – Ta suy tư, quán chiếu về tâm ly dục tầm – Ta không hình dung được sự nguy cơ đến từ nhân duyên ấy. Này các chư vị Tỳ Kheo, nếu ban ngày – Ta suy tư, quán chiếu về tâm ly dục tầm – Ta không hình dung được sự nguy cơ đến từ nhân duyên ấy.  Này các chư vị Tỳ Kheo, nếu ban đêm, và ban ngày – Ta suy tư, quán chiếu về tâm ly dục tầm – Ta không hình dung được sự nguy cơ đến từ nhân duyên ấy. Ngoại trừ, khi Ta suy tư, quán chiếu quá lâu, có thể làm thân Ta bị mệt mỏi; khi thân bị mệt mỏi – thì tâm Ta bị dao động; khi tâm Ta bị dao động – thì lúc đó – tâm Ta rất khó được định tĩnh. Chư Tỳ-kheo, rồi tự trong nội thân -Ta trấn an tâm, ổn định tư tưởng, tâm được hợp nhất, và khiến tâm Ta được tập trung. Tại sao vậy? vì làm như thế sẽ không làm tâm Ta bị dao động.

 

“And as I remained thus heedful, ardent, & resolute, thinking imbued with harmlessness arose in me. I discerned that ‘Thinking imbued with harmlessness has arisen in me; and that leads neither to my own affliction, nor to the affliction of others, nor to the affliction of both. It fosters discernment, promotes lack of vexation, & leads to Unbinding.

Này các chư vị Tỳ Kheo, rồi Ta tỉnh thức sống trong chánh niệm, tinh tấn kiên trì, và nhất quyết kiên định. Khi tâm ly dục tầm khởi lên, Ta nhận thức rỏ: “tâm vô lậu – ly dục tầm này đã và đang khởi lên nơi Ta; nó sẽ không đến làm hại mình, hại người – và sẽ không đưa đến làm hại hết cả hai. Nó sẽ làm tăng trưởng trí tuệ, dự phần làm giãm đi phiền não, và sẽ đưa đến sự giải thoát – nhập Niết-bàn.

 

If I were to think & ponder in line with that even for a night… even for a day… even for a day & night, I do not envision any danger that would come from it, except that thinking & pondering a long time would tire the body. When the body is tired, the mind is disturbed; and a disturbed mind is far from concentration.’ So I steadied my mind right within, settled, unified, & concentrated it. Why is that? So that my mind would not be disturbed.

Này các chư vị Tỳ Kheo, nếu ban đêm – Ta suy tư, quán chiếu về tâm ly dục tầm – Ta không hình dung được sự nguy cơ đến từ nhân duyên ấy. Này các chư vị Tỳ Kheo, nếu ban ngày – Ta suy tư, quán chiếu về tâm ly dục tầm – Ta không hình dung được sự nguy cơ đến từ nhân duyên ấy.  Này các chư vị Tỳ Kheo, nếu ban đêm, và ban ngày – Ta suy tư, quán chiếu về tâm ly dục tầm – Ta không hình dung được sự nguy cơ đến từ nhân duyên ấy. Ngoại trừ, khi Ta suy tư, quán chiếu quá lâu, có thể làm thân Ta bị mệt mỏi; khi thân bị mệt mỏi – thì tâm Ta bị dao động; khi tâm Ta bị dao động – thì lúc đó – tâm Ta rất khó được định tĩnh. Chư Tỳ-kheo, rồi tự trong nội thân -Ta trấn an tâm, ổn định tư tưởng, tâm được hợp nhất, và khiến tâm Ta được tập trung. Tại sao vậy? vì làm như thế sẽ không làm tâm Ta bị dao động.

 

“Whatever a monk keeps pursuing with his thinking & pondering, that becomes the inclination of his awareness. If a monk keeps pursuing thinking imbued with renunciation, abandoning thinking imbued with sensuality, his mind is bent by that thinking imbued with renunciation. If a monk keeps pursuing thinking imbued with Non-ill-will, abandoning thinking imbued with ill-will, his mind is bent by that thinking imbued with Non-ill-will. If a monk keeps pursuing thinking imbued with harmlessness, abandoning thinking imbued with harmfulness, his mind is bent by that thinking imbued with harmlessness.

Này các chư vị Tỳ Kheo, nếu quí Tỳ-kheo suy tư – quán chiếu nhiều – bận chạy theo mộng tưởng, thì sự tỉnh giác của chư vị sẽ bị giảm đi. Khi đó, nếu chư vị đã quán chiếu nhiều về dục tầm – thời tâm vị ấy có khuynh hướng bị tiêm nhiểm bởi dục tầm. Nếu chư vị đã quán chiếu nhiều về ly dục tầm – thời tâm vị ấy có khuynh hướng không bị tiêm nhiểm bởi dục tầm – gần mực thì đen, gần đèn thì sáng là nghĩa như vậy.

 

“Just as in the last month of the hot season, when all the crops have been gathered into the village, a cowherd would look after his cows: While resting under the shade of a tree or out in the open, he simply keeps himself mindful of ‘those cows.’ In the same way, I simply kept myself mindful of ‘those mental qualities.’

Này các chư vị Tỳ Kheo, ví như – vào cuối mùa hè nóng bức, khi tất cả vụ lúa mùa đã được thu hoạch – những hạt lúa cũng được cất vào kho – ở trong thôn làng, ví như – có một người mục đồng đang chăn giữ đàng bò: khi cậu ấy đang nằm nghỉ ngơi dưới gốc cây hay ở ngoài trời, một cách đơn giản – cậu ấy chỉ nghĩ đến một chuyện duy nhất: ” đó là những con bò – trong đàng bò của cậu”. Chư vị Tỳ-kheo, ở đây cũng dống như vậy, Ta cũng chỉ nghĩ đến một chuyện duy nhất: “đó là những tâm pháp”.

 

“Unflagging persistence was aroused in me, and unmuddled mindfulness established. My body was calm & unaroused, my mind concentrated & single”.

“Này các chư vị Tỳ Kheo, Ta phát tâm dõng mãnh, tinh tấn, không tiêu cực, niệm được an trú – không tán loạn, thân được khinh an, tâm không cuồng nhiệt, nên tâm ta được nhất tâm bất loạn”.

 

“Quite withdrawn from sensuality, withdrawn from unskillful mental qualities, I entered & remained in the first jhana: rapture & pleasure born from withdrawal, accompanied by directed thought & evaluation”.

“Ở đây, này các chư vị Tỳ kheo, vì Ta hoàn toàn ly dục, ly bất thiện pháp, nên Ta chứng và trú sơ thiền, một trạng thái hỷ, lạc do ly dục sanh, đi kèm với tầm và tứ”.

 

“With the stilling of directed thoughts & evaluations, I entered & remained in the second jhana: rapture & pleasure born of composure, unification of awareness free from directed thought & evaluation — internal assurance”.

“Này các chư vị Tỳ kheo, Ta diệt tầm và tứ, chứng và trú vào nhị thiền, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm và tứ, nội tỉnh nhất tâm”.

 

“With the fading of rapture I remained in equanimity, mindful & alert, and physically sensitive of pleasure. I entered & remained in the third jhana, of which the Noble Ones declare, ‘Equanimous & mindful, he has a pleasant abiding”.

“Này các chư vị Tỳ kheo, Ta Ly hỷ, trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, Ta chứng và an trú vào tam Thiền”.

 

“With the abandoning of pleasure & pain — as with the earlier disappearance of elation & distress — I entered & remained in the fourth jhana: purity of equanimity & mindfulness, neither pleasure nor pain”.

“Này các chư vị Tỳ kheo, Ta xả lạc – xả khổ, diệt hỷ và khổ ưu đã cảm thọ từ trước, Ta chứng và trú vào Tứ thiền, không khổ, không lạc, với xả niệm thanh tịnh”.

 

“When the mind was thus concentrated, purified, bright, unblemished, rid of defilement, pliant, malleable, steady, & attained to imperturbability, I directed it to the knowledge of recollecting my past lives. I recollected my manifold past lives, i.e., one birth, two… five, ten… fifty, a hundred, a thousand, a hundred thousand, many eons of cosmic contraction, many eons of cosmic expansion, many eons of cosmic contraction & expansion”.

“Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng, trong sạch, vô lậu, nhân nhượng, nhu mì, vững chắc, và bình thản như vậy, Ta dẫn tâm – hướng tâm đến Túc Mạng Minh. Trạng thái giác ngộ ấy trải qua ba tầng: đầu đêm, Ta chứng tuệ giác Túc Mạng Minh, giữa đêm chứng tuệ giác Thiên Nhãn Minh và cuối đêm chứng tuệ giác Lậu Tận Minh. Ta nhớ đến các đời sống trong quá khứ của ta: như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp”.

 

There I had such a name, belonged to such a clan, had such an appearance. Such was my food, such my experience of pleasure & pain, such the end of my life. Passing away from that state, I re-arose there. There too I had such a name, belonged to such a clan, had such an appearance. Such was my food, such my experience of pleasure & pain, such the end of my life. Passing away from that state, I re-arose here.’ Thus I remembered my manifold past lives in their modes & details.

Ta nhớ rằng: “Tại chỗ kia, Ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, diện mạo như thế này. Các món ăn như thế này, kinh nghiệm về khổ lạc thọ như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này.  Chết tại chỗ kia, Ta được sanh ra tại chỗ này, tại chỗ kia, Ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, diện mạo như thế này.  Các món ăn như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ này, Ta được sanh ra ở đây”. Như vậy Ta nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết.

 

“This was the first knowledge I attained in the first watch of the night. Ignorance was destroyed; knowledge arose; darkness was destroyed; light arose — as happens in one who is heedful, ardent, & resolute”.

“Này các chư vị Tỳ kheo, trong đêm canh đầu – Ta chứng được Tuệ Giác Minh thứ nhất, khi vô minh diệt, thì minh thức tri sanh; khi bóng tối diệt, thì ánh sáng sanh — đó là những gì xẩy ra cho Ta – là người sống tỉnh thức trong chánh niệm, tinh tấn kiên trì, và nhất quyết kiên định”.

 

“When the mind was thus concentrated, purified, bright, unblemished, rid of defilement, pliant, malleable, steady, & attained to imperturbability. I directed it to the knowledge of the passing away & reappearance of beings. I saw — by means of the divine eye, purified & surpassing the human — beings passing away & re-appearing, and I discerned how they are inferior & superior, beautiful & ugly, fortunate & unfortunate in accordance with their kamma”.

“Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, trong sạch, uyển chuyển, vững chắc, bình thản như vậy. Ta dẫn tâm, hướng tâm đến sanh tử trí về chúng sanh. Ta với Tuệ Giác Thiên Nhãn Minh – thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, thấy sự sống và sự chết của chúng sanh. Ta tuệ tri rằng, chúng sanh người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ gây ra”.

 

“These beings — who were endowed with bad conduct of body, speech & mind, who reviled the Noble Ones, held wrong views and undertook actions under the influence of wrong views — with the break-up of the body, after death, have re-appeared in the plane of deprivation, the bad destination, the lower realms, in hell”.

“Những chúng sanh này – đã từng làm những ác hạnh về thân, ác hạnh về lời nói, ác hạnh về ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, và tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, hoặc địa ngục”.

 

“But these beings — who were endowed with good conduct of body, speech, & mind, who did not revile the Noble Ones, who held right views and undertook actions under the influence of right views — with the break-up of the body, after death, have re-appeared in the good destinations, in the heavenly world”.

“Ngoại trừ những chúng sanh nào – đã thành tựu những thiện hạnh về thân, thành tựu những thiện hạnh về lời nói, thành tựu những thiện hạnh về ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến, những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các cỏi thiện phú, ở cỏi thiên đàng”.

 

“Thus — by means of the divine eye, purified & surpassing the human. I saw beings passing away & re-appearing, and I discerned how they are inferior & superior, beautiful & ugly, fortunate & unfortunate in accordance with their kamma”.

“Như vậy với Tuệ Giác Thiên Nhãn Minh – thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, Ta thấy sự sống chết của chúng sanh. Ta tuệ tri rằng, chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ”.

 

“This was the second knowledge I attained in the second watch of the night. Ignorance was destroyed; knowledge arose; darkness was destroyed; light arose — as happens in one who is heedful, ardent, & resolute.

“Này các chư vị Tỳ kheo, trong đêm canh giữa – Ta chứng được Tuệ Giác thứ hai – Thiên Nhãn Minh, khi vô minh diệt, thì minh thức tri sanh; khi bóng tối diệt, thì ánh sáng sanh — đó là những gì xẩy ra cho Ta – là người sống tỉnh thức trong chánh niệm, tinh tấn kiên trì, và nhất quyết kiên định”.

 

“When the mind was thus concentrated, purified, bright, unblemished, rid of defilement, pliant, malleable, steady, & attained to imperturbability. I directed it to the knowledge of the ending of the mental fermentations. I discerned, as it had come to be, that ‘This is stress… This is the origination of stress… This is the cessation of stress… This is the way leading to the cessation of stress… These are fermentations… This is the origination of fermentations… This is the cessation of fermentations… This is the way leading to the cessation of fermentations”.

“Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng, trong sạch, vô lậu, nhân nhượng, nhu mì, vững chắc, và bình thản như vậy. Ta dẫn tâm – hướng tâm đến Tuệ Giác Tam Minh thứ ba – Lậu Tận Minh.  Ta đã niệm biết phân biệt chư pháp như thật “Ðây là khổ”, thắng tri như thật: “Ðây là nguyên nhân của khổ”, thắng tri như thật: “Ðây là khổ diệt”, thắng tri như thật: “Ðây là con đường đưa đến khổ diệt”, thắng tri như thật: “Ðây là những lậu hoặc”, thắng tri như thật: “Ðây là nguyên nhân của các lậu hoặc”, thắng tri như thật: “Ðây là các lậu hoặc diệt”, thắng tri như thật: “Ðây là con đường đưa đến các lậu hoặc diệt, thắng tri như thật”.

 

“My heart, thus knowing, thus seeing, was released from the fermentation of sensuality, released from the fermentation of becoming, and released from the fermentation of ignorance. With release, there was the knowledge, ‘Released.’ I discerned that ‘Birth is ended, the holy life fulfilled, the task done. There is nothing further for this world”.

“Nhờ biết như vậy, nhờ thấy như vậy, tâm của Ta thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Ðối với tự thân đã giải thoát như vậy, khởi lên trí hiểu biết: Ta đã giải thoát. Ta đã thắng tri: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này ở thế giới ta bà nữa”.

 

“This was the third knowledge I attained in the third watch of the night. Ignorance was destroyed; knowledge arose; darkness was destroyed; light arose — as happens in one who is heedful, ardent, & resolute”.

“Này các chư vị Tỳ kheo, trong đêm canh cuối thứ ba – Ta chứng được Tuệ Giác Minh thứ ba – Lậu Tận Minh, khi vô minh diệt, thì minh thức tri sanh; khi bóng tối diệt, thì ánh sáng sanh — đó là những gì xẩy ra cho Ta – là người sống tỉnh thức trong chánh niệm, tinh tấn kiên trì, và nhất quyết kiên định”.

 

“Suppose, monks that in a forested wilderness there were a large low-lying marsh, in dependence on which there lived a large herd of deer; and a certain man were to appear, not desiring their benefit, not desiring their welfare, not desiring their rest from bondage. He would close off the safe, restful path that led to their rapture, and would open up a false path, set out a male decoy, place a female decoy, and thus the large herd of deer, at a later time, would fall into ruin and disaster.

“Này các chư vị Tỳ kheo, giống như trong khu rừng rậm rạp có một hồ nước lớn thâm sâu, và một đoàn nai lớn sống gần một bên. Có một người đến, muốn chúng – không được an ổn khỏi các ách nạn. Nếu có con đường nào được yên ổn, được an toàn, đưa đến hoan hỷ, người ấy sẽ chận đóng con đường này lại, trái lại, sẽ mở con đường nguy hiểm – đặt những bẩy sập chặn hai bên đường vào đórồi đặt những con mồi đực, và con mồi cái. Này các Tỳ kheo, như vậy, một thời gian sau đó – ắt hẳn – đoàn nai lớn ấy sẽ bị lọt vào cạm bẩy và sẽ bị tai họa thảm khóc”.

 

“Then suppose that, a certain man were to appear to that same large herd of deer, desiring their benefit, desiring their welfare, desiring their rest from bondage. He would open up the safe, restful path that led to their rapture, would close off the false path, take away the male decoy, destroy the female decoy, and thus the large herd of deer would eventually come into growth, increase, & abundance”.

“Này các chư vị Tỳ kheo, giả sử lúc đó – có một người đến, muốn đoàn nai ấy được lợi ích, muốn chúng được hạnh phúc, muốn chúng được an ổn khỏi các ách nạn. Ông ấy sẽ đóng con đường cạm bẩy đi và mở ra một con đường khác an toàn hơn cho đàng nai, đồng thời ông ta sẽ đem con mồi đực đi, sẽ bỏ con mồi cái đi, và như vậy đoàn nai lớn ấy sau một thời gian nửa – cuối cùng rồi cũng sẽ được nẩy nở thêm ra, tăng trưởng, và lớn mạnh”.

 

“I have given this simile in order to convey a meaning. The meaning is this:

–    The large, low-lying marsh’ stands for sensuality.

–    The large herd of deer’ stands for beings.

  • The man not desiring their benefit, not desiring their welfare, not desiring their rest from bondage’ stands for Mara, the Evil One.
  • The false path’ stands for the eightfold wrong path, i.e., wrong view, wrong resolve, wrong speech, wrong action, wrong livelihood, wrong effort, wrong mindfulness, & wrong concentration.
  • The male decoy’ stands for passion & delight.
  • The female decoy’ stands for ignorance.
  • The man desiring their benefit, desiring their welfare, desiring their rest from bondage’ stands for the Tathagata, the Worthy One, the Rightly Self-awakened One.
  • The safe, restful path that led to their rapture’ stands for the noble eightfold path, i.e., right view, right resolve, right speech, right action, right livelihood, right effort, right mindfulness, & right concentration.

“Này các chư vị Tỳ kheo, Ta nói ví dụ ấy để giải thích ý nghĩa như sau:

  • Hồ nước lớn, thâm sâu chỉ cho các dục.
  • Đoàn nai lớn chỉ cho các loài hữu tình.
  • Con người không muốn chúng được lợi ích, không muốn chúng được hạnh phúc, không muốn chúng được an ổn khỏi các ách nạn chỉ cho ác ma.
  • Con đường nguy hiểm chỉ cho con đường tà đạo có tám ngành, tức là tà tri kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định.
  • Con mồi đực chỉ cho hỷ và tham.
  • Con mồi cái chỉ cho vô minh.
  • Còn người muốn chúng được lợi ích, muốn chúng được hạnh phúc, muốn chúng được an ổn khỏi các ách nạn chỉ cho Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác.
  • Con đường yên ổn, an toàn, đưa đến hoan hỷ chỉ cho con đường Thánh đạo Tám ngành, tức là Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, và Chánh định”.

 

“So, monks, I have opened up the safe, restful path, closed off the false path, removed the male decoy, destroyed the female. Whatever a teacher should do — seeking the welfare of his disciples, out of sympathy for them — that have I done for you. Over there are the roots of trees; over there, empty dwellings. Practice jhana, monks. Don’t be heedless. Don’t later fall into regret. This is our message to you.”

That is what the Blessed One said. Gratified, the monks delighted in the Blessed One’s words.

“Này các chư vị Tỳ kheo,, như vậy Ta mở con đường yên ổn, an toàn, đưa đến hoan hỷ, Ta đóng con đường nguy hiểm, Ta mang đi con mồi đực, Ta hủy bỏ con mồi cái. Chư Tỳ-kheo, những gì vị Ðạo Sư cần phải làm cho các đệ tử vì lòng thương tưởng họ, những điều ấy Ta đã làm, vì lòng thương tưởng các Người. Chư Tỳ-kheo, đây là các gốc cây, đây là các chỗ trống. Hãy Thiền định, chớ có phóng dật, chớ có hối tiếc về sau. Ðó là lời giáo huấn của Ta.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời dạy của Thế Tôn.

 

Summary:

Tóm lược:

 

“With the abandoning of pleasure & pain — as with the earlier disappearance of elation & distress — I entered & remained in the fourth jhana: purity of equanimity & mindfulness, neither pleasure nor pain”.

“Này các chư vị Tỳ kheo, Ta xả lạc – xả khổ, diệt hỷ và khổ ưu đã cảm thọ từ trước, Ta chứng và trú vào Tứ thiền, không khổ, không lạc, với xả niệm thanh tịnh”.

 

“When the mind was thus concentrated, purified, bright, unblemished, rid of defilement, pliant, malleable, steady, & attained to imperturbability, I directed it to the knowledge of recollecting my past lives.

“Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng, trong sạch, vô lậu, nhân nhượng, nhu mì, vững chắc, và bình thản như vậy, Ta dẫn tâm – hướng tâm đến Túc Mạng Minh.

 

The enlightened state through three floors:

Trạng thái giác ngộ ấy trải qua ba tầng:

 

  1. Đầu đêm – at nightfall:

Chứng tuệ giác Túc Mạng Minh

     Knowledge of recollecting my past lives.

  1. Giữa đêm – wisdom midnight:

Chứng tuệ giác Thiên Nhãn Minh.

     Knowledge of the passing away & reappearance of beings.

  1. Cuối đêm – late night:

Chứng tuệ giác Lậu Tận Minh.

    Knowledge of the ending of the mental fermentations.

 

Sources:

Tài liệu tham khảo:

  1. https://www.accesstoinsight.org/tipitaka/sn/sn45/sn45.001.than.html
  2. http://www.daophatngaynay.com/vn/phat-phap/giao-phap/tam-tanh/19555-duc-phat-khuyen-chung-ta-thuan-phuc-con-khi-trong-tam-nhu-the-nao.html
  3. https://thuvienhoasen.org/a23284/tanh-khong-tu-ngu-phat-giao-thuong-bi-hieu-lam-nhat
  4. Photo title: https://www.facebook.com/PHẬT-PHÁP-Buddha-Dharma-1390714567845556/
  5. https://thuvienhoasen.org/a23284/tanh-khong-tu-ngu-phat-giao-thuong-bi-hieu-lam-nhat
  6. Photo 1: https://chrisherd.medium.com/money-greed-and-the-meaning-of-life-7a041e924926