65. Chương 7: Cái gì không phải là trí tuệ? – What wisdom is not – Song ngữ
Opening The Door Of Your Heart, And Other Buddhist Tales Of Happiness
Mở Rộng Cửa Tâm Mình
English: Ajahn Brahm
Việt ngữ: Chơn Quán Trần-ngọc Lợi
Compile: Lotus group
Chương 7: Trí Tuệ Và Nội Tĩnh – Wisdom and Inner Silence
65. What wisdom is not – Cái gì không phải là trí tuệ?
A few years ago, a number of scandals involving Thai monks appeared in the international press. Monks are bound by their rules to observe celibacy strictly.
In my tradition, to be beyond all suspicion regarding celibacy, monks aren’t allowed to have any physical contact with a woman, nor are nuns allowed physical contact with a man. In the scandals that were publicized, some monks had not kept those rules. They were naughty monks. And the press knew that their readers were only interested in naughty monks, not the boring, rule-keeping ones.
Vài năm trước đây có mấy câu chuyện gièm pha sư Thái đăng trên báo chí nước ngoài. Theo giới luật tăng ni phải sống độc thân. Tông phái tôi còn gao gắt hơn, tăng ni không được đụng chạm người khác phái. Một số tăng không giữ đúng giới luật nên bị chỉ trích trên báo. Đó là một số sư bất hảo mà báo chí muốn khai thác để thỏa mãn tánh hiếu kỳ của một số độc giả. Chớ còn tăng ni giữ đúng giới luật có gì mà nói – chán phèo nên có ai thèm để ý!
At the time of these events, I thought it was high time I made my own confession. So, one Friday evening in our temple in Perth, before an audience of some three hundred people, some of them long-standing supporters, I summoned up courage and told them the truth.
Vào thời điểm đó tôi nghĩ là lúc tôi nên nói một sự thật của tôi. Một tối thứ sáu nọ tôi lấy hết bình sanh thú thật với thính chúng trên ba trăm Phật tử rằng:
‘I have a confession to make,’ I began. ‘This is not easy. Some years ago, …’ I hesitated. ‘Some years ago,’ I managed to continue, ‘I spent some of the happiest hours of my life …’ I had to pause again. ‘I spent some of the happiest hours of my life … in the loving arms of another man’s wife.’ I’d said it. I’d confessed. ‘We hugged. We caressed. We kissed.’ I finished. Then I hung my head and stared at the carpet.
“Tôi có điều muốn thưa với quý tín chủ,” tôi bắt đầu và ấp a ấp úng tiếp, “Trước đây, tôi có sống một thời gian rất hạnh phúc…trong…vòng…tay…thương yêu…của một người đàn bà…vợ người ta.” Tôi thú nhận tiếp, “Tôi có được ôm ấp, nâng niu, vuốt ve, và hôn hít nhiều lần.” Nói tới đây làm như tôi nghẹn lời, tôi cúi đầu và nhìn đăm đăm xuống thảm.
I could hear the sound of air suddenly drawn in through the mouth in shock. Hands were covering gaping mouths. I heard a few whispers, ‘Oh no! Not Ajahn Brahm.’ I pictured many long-standing supporters heading for the door, never to return. Even lay Buddhists didn’t go with other men’s wives—that’s adultery. I raised my head, looked at my audience confidently, and smiled. ‘That woman,’ I explained before anyone was out of the door. ‘That woman was my mother. When I was a baby.’ My audience exploded in laughter, and relief.
Bấy giờ tôi nghe tiếng nấc vì sốc của nhiều Phật tử. Và cả tiếng xì xầm nữa, “Ồ, Sư Brahm! Có thể như vậy sao?” Tôi hình dung sẽ có nhiều đệ tử trung thành của tôi bỏ tôi bước ra khỏi cửa không bao giờ trở lại. Thật tình mà nói, cả người thường cũng không được phép dan díu với vợ người – đó là thông gian rồi.
Giây phút sau tôi ngẩng đầu, nhìn thính chúng một cách tự tin và mỉm cười. Tôi giải thích trước khi có người bước ra khỏi cửa: “Người đàn bà ấy,…bà là mẹ tôi…và tôi là đứa con nhỏ của bà.” Tất cả thở phào và rộ lên cười vui vẻ.
‘Well it was true!’ I shouted through the microphone above the howling. ‘She was another man’s wife, my Dad’s. We hugged, we caressed, and we kissed. They were some of the happiest hours of my life.’
“Đúng như vậy đó, thưa các bạn,” tôi nói lớn trong micro. “Bà là vợ của ba tôi, có đúng không, các bạn?” Tôi rống tiếp, “Bà đã ẵm bồng tôi trong tay, nưng niu tôi, hôn tôi và đó dĩ nhiên là những giây phút thần tiên của tôi chứ còn sao nữa?”
When my audience had wiped off their tears and stopped giggling, I pointed out that nearly all of them had judged me, mistakenly. Even though they had heard the words from my own mouth, and their meaning seemed so clear, they had leapt to the wrong conclusion. Fortunately, or rather because it was carefully planned, I was able to point out their error. ‘How many times,’ I asked of them, ‘are we not so fortunate, and jump to conclusions, on evidence that seems so certain, only to be wrong, disastrously wrong?’ Judging absolutely — ‘This is right, all else is wrong’—is not wisdom.
Lúc thính chúng lau hết nước mắt và trở về tĩnh lặng, tôi bảo tất cả đã phê phán tôi một cách hết sức sai lầm. Dầu nghe chính miệng tôi thốt lên và lời tôi nói rõ ràng, tất cả đều đã đi đến kết luận sai lầm. May cho tôi, hay đúng ra nhờ tôi đã chuẩn bị chu đáo trước, tôi có thể chỉ cho họ thấy sai lầm của họ. Tôi hỏi:
“Có bao nhiêu lần rồi, chúng ta đã vội đi đến kết luận sai, rất sai, dầu tang chứng có hiển nhiên?” Độc đoán phê phán – “Đây mới đúng, còn tất cả đều sai” – không phải là trí tuệ vậy.
Sources:
Tài liệu tham khảo:
- https://tienvnguyen.net/p147a884/chuong-7-
- https://www.bps.lk/olib/bp/bp619s_Brahm_Opening-The-Doors-Of-Your-Heart.pdf
- https://www.azquotes.com/quote/765697