[55a] Chương XI – Tập V – Tương Ưng Dự Lưu – Connected Discourses on Stream-Entry – Song ngữ

The Connected Discourses of the Buddha

Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta Nikàya)

Anh ngữ: Bhikkhu Bodhi.

Việt ngữ: Hòa thượng Thích Minh Châu.

Compile: Lotus group

I. BAMBOO GATE – Phẩm Veludvàra

II. THE THOUSANDFOLD, OR ROYAL PARK – Phẩm Một Ngàn, hay Vườn Vua

 

I. BAMBOO GATE – Phẩm Veludvàra

  

1 (1) Wheel-Turning Monarch – Vua 

 

1-2) At Sāvatthī. There the Blessed One said this:

3) — “Bhikkhus, although a wheel-turning monarch, having exercised supreme sovereign rulership over the four continents, with the breakup of the body, after death, is reborn in a good destination, in a heavenly world, in the company of the devas of the Tāvatiṃsa realm, and there in the Nandana Grove, accompanied by a retinue of celestial nymphs, he enjoys himself supplied and endowed with the five cords of celestial sensual pleasure, still, as he does not possess four things, he is not freed from hell, the animal realm, and the domain of ghosts, not freed from the plane of misery, the bad destinations, the nether world.

4) Although, bhikkhus, a noble disciple maintains himself by lumps of alms food and wears rag robes, still, as he possesses four things, he is freed from hell, the animal realm, and the domain of ghosts, freed from the plane of misery, the bad destinations, the nether world. “What are the four?

5) Here, bhikkhus, the noble disciple possesses confirmed confidence in the Buddha thus: ‘The Blessed One is an arahant, perfectly enlightened, accomplished in true knowledge and conduct, fortunate, knower of the world, unsurpassed leader of persons to be tamed, teacher of devas and humans, the Enlightened One, the Blessed One.’

1-2) Sàvatthi. Ở đấy… nói như sau:

3) — Dầu cho, này các Tỷ-kheo, một vị Chuyển luân vương làm chủ tể và cai trị bốn châu, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, thiên giới, thế giới này, cộng trú với chư Thiên ở cõi Ba mươi ba; tại đấy, vị ấy trú trong rừng Nandana, được chúng Thiên nữ đoanh vây, được đầy đủ, được cung cấp, được bao bọc năm thiên dục công đức, nhưng không được đầy đủ bốn pháp; tuy vậy, vị ấy chưa được giải thoát khỏi địa ngục, chưa được giải thoát khỏi sanh vào loài bàng sanh, chưa giải thoát khỏi ngạ quỷ, và chưa thoát khỏi ác sanh, ác thú, đọa xứ.

4) Nhưng này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử, dầu muốn sống bằng các miếng ăn khất thực, đắp với y nhiều tấm (nantakàni); vị ấy đầy đủ bốn pháp. Và vị ấy được giải thoát khỏi địa ngục, được giải thoát khỏi sanh vào loài bàng sanh, được giải thoát khỏi cõi ngạ quỷ, được giải thoát khỏi ác sanh, ác thú, đọa xứ. Thế nào là bốn?

5) Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử thành tựu lòng tin bất động đối với đức Phật: “Ðây bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn”.

 

6) “He possesses confirmed confidence in the Dhamma thus: ‘The Dhamma is well expounded by the Blessed One, directly visible, immediate, inviting one to come and see, applicable, to be personally experienced by the wise.’

7) “He possesses confirmed confidence in the Saṅgha thus: ‘The Saṅgha of the Blessed One’s disciples is practising the good way, practising the straight way, practising the true way, practising the proper way; that is, the four pairs of persons, the eight types of individuals— this Saṅgha of the Blessed One’s disciples is worthy of gifts, worthy of hospitality, worthy of offerings, worthy of reverential salutation, the unsurpassed field of merit for the world.’

8) “He possesses the virtues dear to the noble ones— unbroken, untorn, unblemished, unmottled, freeing, praised by the wise, ungrasped, leading to concentration.

9) “He possesses these four things.

10) And, bhikkhus, between the obtaining of sovereignty over the four continents and the obtaining of the four things, the obtaining of sovereignty over the four continents is not worth a sixteenth part of the obtaining of the four things.”

6) Vị ấy thành tựu lòng tin bất động đối với Pháp: “Pháp do Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện tại, có hiệu quả tức thời, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình giác hiểu”.

7) Vị ấy thành tựu lòng tin bất động đối với chúng Tăng: “Diệu hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn. Trực hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn. Ứng lý hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn. Chơn chánh hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn. Tức là bốn đôi tám chúng. Chúng đệ tử của Thế Tôn là đáng cung kính, đáng cúng dường, đáng tôn trọng, đáng được chấp tay, là phước điền vô thượng ở đời”.

8) Vị ấy thành tựu các giới được các bậc Thánh ái kính, không bị phá hoại, không bị đâm cắt, không bị nhiễm ô, không bị uế nhiễm, đem lại giải thoát, được người trí tán thán, không bị chấp thủ, đưa đến Thiền định.

9) Vị ấy thành tựu bốn pháp này.

10) Và này các Tỷ-kheo, có sự lợi đắc của bốn châu và sự lợi đắc của bốn pháp. Sự lợi đắc bốn châu không đáng giá (agahati) một phần mười sáu lợi đắc bốn pháp.

  

2 (2) Grounded – Thể Nhập 

 

1-3) — “Bhikkhus, a noble disciple who possesses four things is a stream-enterer, no longer bound to the nether world, fixed in destiny, with enlightenment as his destination. “What four?

4-7) Here, bhikkhus, a noble disciple possesses confirmed confidence in the Buddha thus: ‘The Blessed One is … teacher of devas and humans, the Enlightened One, the Blessed One.’ He possesses confirmed confidence in the Dhamma … in the Saṅgha. … He possesses the virtues dear to the noble ones, unbroken … leading to concentration.

8) “A noble disciple, bhikkhus, who possesses these four things is a stream-enterer, no longer bound to the nether world, fixed in destiny, with enlightenment as his destination.”

9) This is what the Blessed One said. Having said this, the Fortunate One, the Teacher, further said this:

“Those who possess faith and virtue,

Confidence and vision of the Dhamma,

In time arrive at the happiness

Grounded upon the holy life.”

1-3) — Thành tựu bốn pháp, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử là bậc Dự lưu, không có thối đọa, quyết chắc chứng quả giác ngộ. Thế nào là bốn?

4) Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử thành tựu lòng tin bất động đối với đức Phật: “Ðây là bậc Ứng cúng,… Phật, Thế Tôn”.

5-6) Ðối với Pháp… Ðối với Tăng…

7) Vị ấy thành tựu các giới được các bậc Thánh ái kính… đưa đến Thiền định.

8) Thành tựu bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc chứng quả giác ngộ.

9) Thế Tôn thuyết như vậy, Thiện Thệ thuyết vậy xong, bậc Ðạo Sư lại nói thêm:

Ai có tín và giới,
Tịnh tín và thấy pháp,
Ðến thời chúng chín muồi,
Nhập Phạm hạnh, được lạc.

 

3 (3) Dīghāvu – Dìghàvu 

 

1) On one occasion, the Blessed One was dwelling at Rājagaha in the Bamboo Grove, the Squirrel Sanctuary.

2) Now on that occasion the lay follower Dīghāvu was sick, afflicted, gravely ill. 3-4) Then the lay follower Dīghāvu addressed his father, the householder Jotika, thus:

— “Come, householder, approach the Blessed One, pay homage to him in my name with your head at his feet, and say: ‘Venerable sir, the lay follower Dīghāvu is sick, afflicted, gravely ill; he pays homage to the Blessed One with his head at the Blessed One’s feet.’ Then say: ‘It would be good, venerable sir, if the Blessed One would come to the residence of the lay follower Dīghāvu out of compassion.’”

— “Yes, dear,” the householder Jotika replied, and he approached the Blessed One, paid homage to him, sat down to one side, and delivered his message. The Blessed One consented by silence.

5) Then the Blessed One dressed and, taking bowl and robe, went to the residence of the lay follower Dīghāvu. He then sat down in the appointed seat and said to the lay follower Dīghāvu:

— “I hope you are bearing up, Dīghāvu, I hope you are getting better. I hope your painful feelings are subsiding and not increasing, and that their subsiding, not their increase, is to be discerned.”

“Venerable sir, I am not bearing up, I am not getting better. Strong painful feelings are increasing in me, not subsiding, and their increase, not their subsiding, is to be discerned.”

6) — “Therefore, Dīghāvu, you should train yourself thus: ‘I will be one who possesses confirmed confidence in the Buddha thus: “The Blessed One is … teacher of devas and humans, the Enlightened One, the Blessed One.” I will be one who possesses confirmed confidence in the Dhamma … in the Saṅgha.… I will be one who possesses the virtues dear to the noble ones, unbroken … leading to concentration.’ It is in such a way that you should train yourself.”

1) Một thời, Thế Tôn ở Ràjagaha (Vương Xá), Trúc Lâm, chỗ nuôi dưỡng các con sóc.

2) Lúc bấy giờ, cư sĩ Dìghàvu bị bệnh, đau đớn, bị trọng bệnh.

3) Rồi cư sĩ Dìghàvu thưa với cha là Jotika:

— Hãy đi, thưa Cha, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nhân danh con, cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn và thưa: “Cư sĩ Dìghàvu, bạch Thế Tôn, bị bệnh, đau đớn, bị trọng bệnh, xin cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn”. Rồi Cha hãy thưa như sau: “Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn đi đến nhà cư sĩ Dìghàvu vì lòng từ mẫn!”

— Ðược, này Con.

Gia chủ Jotika nghe lời cư sĩ Dìghàvu, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên.

4) Ngồi một bên, gia chủ Jotika bạch Thế Tôn:

— Bạch Thế Tôn, cư sĩ Dìghàvu bị bệnh, đau đớn, bị trọng bệnh. Vị ấy cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn và thưa như sau: “Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn đi đến trú xứ cư sĩ Dìghàvu vì lòng từ mẫn!”

Thế Tôn im lặng nhận lời.

5) Rồi Thế Tôn đắp y, cầm y bát đi đến trú xứ cư sĩ Dìghàvu; sau khi đến, ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Ngồi xuống rồi, Thế Tôn nói với cư sĩ Dìghàvu:

— Này Dìghàvu, Ông có kham nhẫn được chăng? Ông có chịu đựng được chăng? Có phải khổ thọ giảm thiểu, không có tăng trưởng? Có phải có dấu hiệu giảm thiểu, không tăng trưởng?

— Bạch Thế Tôn, con không có thể kham nhẫn, con không có thể chịu đựng. Ðau đớn kịch liệt nơi con không có giảm thiểu, chúng tăng trưởng. Chúng có dấu hiệu tăng trưởng, không có dấu hiệu giảm thiểu.

6) — Do vậy, này Dìghàvu, Ông hãy học tập như sau: “Ta sẽ thành tựu lòng tin bất động đối với đức Phật: “Ðây là bậc Ứng Cúng… Phật, Thế Tôn. Ðối với Pháp… Ðối với chúng Tăng… Tôi sẽ thành tựu các giới được các bậc Thánh ái kính… đưa đến Thiền định””. Như vậy, này Dìghàvu, Ông cần phải học tập.

7) — “Venerable sir, as to these four factors of stream-entry that have been taught by the Blessed One, these things exist in me, and I live in conformity with those things. For, venerable sir, I possess confirmed confidence in the

Buddha … in the Dhamma … in the Saṅgha.… I possess the virtues dear to the noble ones, unbroken … leading to concentration.”

— “Therefore, Dīghāvu, established upon these four factors of stream-entry, you should develop further six things that partake of true knowledge.

8) Here, Dīghāvu, dwell contemplating impermanence in all formations, perceiving suffering in what is impermanent, perceiving nonself in what is suffering, perceiving abandonment, perceiving fading away, perceiving cessation. It is in such a way that you should train yourself.”

— “Venerable sir, as to these six things that partake of true knowledge that have been taught by the Blessed One, these things exist in me, and I live in conformity with those things. For, venerable sir, I dwell contemplating impermanence in all formations, perceiving suffering in what is impermanent, perceiving nonself in what is suffering, perceiving abandonment, perceiving fading away, perceiving cessation.

9) However, venerable sir, the thought occurs to me: ‘After I am gone, may this householder Jotika not fall into distress.’”

— “Don’t be concerned about this, dear Dīghāvu. Come now, dear Dīghāvu, pay close attention to what the Blessed One is saying to you.” 

10) Then the Blessed One, having given this exhortation to the lay follower Dīghāvu, rose from his seat and departed.

11) Then, not long after the Blessed One had left, the lay follower Dīghāvu died.

12) Then a number of bhikkhus approached the Blessed One, paid homage to him, sat down to one side, and said to the Blessed One:

— “Venerable sir, that lay follower named Dīghāvu to whom the Blessed One gave a brief exhortation has died. What is his destination, what is his future bourn?”

— “Bhikkhus, the lay follower Dīghāvu was wise. He practised in accordance with the Dhamma and did not trouble me on account of the Dhamma.

13) Bhikkhus, with the utter destruction of the five lower fetters the lay follower Dīghāvu has become one of spontaneous birth, due to attain Nibbāna there without returning from that world.”

7) — Bạch Thế Tôn, đối với bốn Dự lưu phần do Thế Tôn thuyết giảng, tất cả các pháp ấy đều có ở trong con. Con thực hiện chúng đầy đủ. Bạch Thế Tôn, con thành tựu lòng tin bất động đối với Phật: “Ðây là bậc Ứng Cúng… Phật, Thế Tôn… Ðối với Pháp… đối với chúng Tăng… Tôi thành tựu các giới được các bậc Thánh ái kính… đưa đến Thiền định”.

— Do vậy, này Dìghàvu, sau khi Ông đã an trú trong bốn Dự lưu phần này, Ông hãy tu tập thêm sáu minh phần pháp (chavijjà-bhàgiye dhamme).

8) Ở đây, này Dìghàvu, Ông hãy trú, quán vô thường trong tất cả hành, quán khổ tưởng trong vô thường, quán vô ngã tưởng trong khổ, quán tưởng đoạn tận, quán tưởng ly tham, quán tưởng đoạn diệt. Như vậy, này Dìghàvu, Ông cần phải học tập.

— Bạch Thế Tôn, đối với sáu minh phần pháp được Thế Tôn thuyết giảng này, chúng đều có ở trong con và con thực hiện chúng đầy đủ. Bạch Thế Tôn, con trú, quán vô thường trong tất cả hành, quán khổ tưởng trong vô thường, quán vô ngã tưởng trong khổ, quán tưởng đoạn tận, quán tưởng ly tham, quán tưởng đoạn diệt.

9) Nhưng, bạch Thế Tôn, con có ý nghĩ sau đây: “Ta không có muốn gia chủ Jotika, ở đây khi ta chết phải rơi vào khốn khổ (vighàta)”.

— Này Dìghàvu, chớ có tác ý như vậy! Hãy nhìn, này Dighàvu! Những gì Thế Tôn đang nói cho con, con hãy khéo tác ý.

10) Rồi Thế Tôn sau khi giáo giới cho cư sĩ Dìghàvu với lời giáo giới, từ chỗ ngồi đứng dậy, và ra đi.

11) Cư sĩ Dìghàvu, sau khi Thế Tôn ra đi không bao lâu liền mệnh chung.

12) Rồi nhiều Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

— Bạch Thế Tôn, người cư sĩ tên là Dìghàvu; sau khi được nghe Thế Tôn giáo giới một cách tóm tắt, đã mệnh chung. Sanh thú cư sĩ ấy thế nào? Sanh xứ cư sĩ ấy chỗ nào?

— Hiền minh, này các Tỷ-kheo, là cư sĩ Dìghàvu! Cư sĩ Dìghàvu thực hiện các pháp và tùy pháp, không làm phiền nhiễu Ta với những kiện tụng về pháp.

13) Cư sĩ Dìghàvu, sau khi đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh nhập diệt ở tại đấy, không còn trở lui thế giới này nữa.

4 (4) Sāriputta (1) – Sàriputta (1)

 

1) On one occasion, the Venerable Sāriputta and the Venerable Ānanda were dwelling at Sāvatthī in Jeta’s Grove, Anāthapiṇḍika’s Park.

2) Then, in the evening, the Venerable Ānanda emerged from seclusion.… Sitting to one side, the Venerable Ānanda said to the Venerable Sāriputta:

3) — “Friend Sāriputta, on account of possessing how many things are people declared by the Blessed One to be stream-enterers, no longer bound to the nether world, fixed in destiny, with enlightenment as their destination?”

— “It is on account of possessing four things, friend Ānanda, that people are declared by the Blessed One to be stream-enterers, no longer bound to the nether world, fixed in destiny, with enlightenment as their destination. What four?

4) Here, friend, a noble disciple possesses confirmed confidence in the Buddha thus: ‘The Blessed One is … teacher of devas and humans, the Enlightened One, the Blessed One.’ He possesses confirmed confidence in the Dhamma … in the Saṅgha.… He possesses the virtues dear to the noble ones, unbroken … leading to concentration.

5) “It is, friend, on account of possessing these four things that people are declared by the Blessed One to be stream-enterers, no longer bound to the nether world, fixed in destiny, with enlightenment as their destination.”

1) Một thời, Tôn giả Sàriputta và Tôn giả Ànanda trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn của ông Anàthapindika.

2) Rồi Tôn giả Ànanda, vào buổi chiều, từ chỗ Thiền tịnh đứng dậy… ngồi xuống một bên, Tôn giả Ànanda thưa với Tôn giả Sàriputta:

3) — Thưa Hiền giả Sàriputta, do nhân thành tựu bao nhiêu pháp, chúng sanh ở đời này được Thế Tôn tuyên bố là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc chứng quả giác ngộ?

— Này Hiền giả, do nhân thành tựu bốn pháp nên chúng sanh ở đời này được Thế Tôn tuyên bố là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc sẽ chứng quả giác ngộ. Thế nào là bốn?

4) Ở đây, này Hiền giả, vị Thánh đệ tử thành tựu lòng tin bất động đối với đức Phật… đối với Pháp… đối với chúng Tăng… đầy đủ các giới được các bậc Thánh ái kính… đưa đến Thiền định.

5) Này Hiền giả, do nhân thành tựu bốn pháp này nên các chúng sanh ở đời này được Thế Tôn tuyên bố là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc chứng quả giác ngộ.

  

5 (5) Sāriputta (2) – Sàriputta (2) 

 

1-2) Then the Venerable Sāriputta approached the Blessed One, paid homage to him, and sat down to one side. The Blessed One then said to him:

3) — “Sāriputta, this is said: ‘A factor for stream-entry, a factor for stream-entry.’ What now, Sāriputta, is a factor for stream-entry?”

— “Association with superior persons, venerable sir, is a factor for stream-entry. Hearing the true Dhamma is a factor for stream-entry. Careful attention is a factor for stream-entry. Practice in accordance with the Dhamma is a factor for stream-entry.”

— “Good, good, Sāriputta! Association with superior persons, Sāriputta, is a factor for stream-entry. Hearing the true Dhamma is a factor for stream-entry. Careful attention is a factor for stream-entry. Practice in accordance with the Dhamma is a factor for streamentry.

4) “Sāriputta, this is said: ‘The stream, the stream.’ What now, Sāriputta, is the stream?”

— “This Noble Eightfold Path, venerable sir, is the stream; that is, right view, right intention, right speech, right action, right livelihood, right effort, right mindfulness, right concentration.”

— “Good, good, Sāriputta! This Noble Eightfold Path is the stream; that is, right view … right concentration.

5) “Sāriputta, this is said: ‘A stream-enterer, a streamenterer.’ What now, Sāriputta, is a stream-enterer?”

— “One who possesses this Noble Eightfold Path, venerable sir, is called a stream-enterer: this venerable one of such a name and clan.”

— “Good, good, Sāriputta! One who possesses this Noble Eightfold Path is a stream-enterer: this venerable one of such a name and clan.”

1-2) Rồi Tôn giả Sàriputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Tôn giả Sàriputta đang ngồi một bên:

3) — “Dự lưu phần, dự lưu phần”, này Sàriputta, được nói đến như vậy. Này Sàriputta, thế nào là Dự lưu phần?

— Thân cận bậc Chân nhân, bạch Thế Tôn, là Dự lưu phần. Nghe diệu pháp là Dự lưu phần. Như lý tác ý là Dự lưu phần. Thực hành pháp và tùy pháp là Dự lưu phần.

— Lành thay, này Sàriputta! Lành thay, này Sàriputta! Thân cận bậc Chân nhân là Dự lưu phần… thực hành pháp và tùy pháp là Dự lưu phần.

4) “Dòng sông, dòng sông”, này Sàriputta, được nói đến như vậy. Này Sàriputta, thế nào là dòng sông?

— Bạch Thế Tôn, đây là dòng sông Thánh đạo Tám ngành. Tức là chánh tri kiến… chánh định.

— Lành thay, lành thay, này Sàriputta! Này Sàriputta, đây là dòng sông Thánh đạo Tám ngành, tức là chánh tri kiến… chánh định.

5) “Dự lưu, Dự lưu”, này Sàriputta, được gọi là như vậy. Này Sàriputta, thế nào là Dự lưu?

— Bạch Thế Tôn, ai thành tựu Thánh đạo Tám ngành này, người ấy gọi là Dự lưu, vị Tôn giả với tên như vậy, với họ như vậy.

— Lành thay, lành thay, này Sàriputta! Này Sàriputta, ai thành tựu Thánh đạo Tám ngành này, người ấy được gọi là bậc Dự lưu, vị Tôn giả với tên như thế này, với họ như thế này.

 

6 (6) The Chamberlains – Các Người Thợ Mộc (Thapataye)

 

1) At Sāvatthī.

2) Now on that occasion a number of bhikkhus were making a robe for the Blessed One, thinking: “After the three months, with his robe completed, the Blessed One will set out on tour.”

3) Now on that occasion, the chamberlains Isidatta and Purāṇa were residing in Sādhuka on some business. They heard: “A number of bhikkhus, it is said, are making a robe for the Blessed One, thinking that after the three months, with his robe completed, the Blessed One will set out on tour.” 

4) Then the chamberlains Isidatta and Purāṇa posted a man on the road, telling him:

— “Good man, when you see the Blessed One coming, the Arahant, the Perfectly Enlightened One, then you should inform us.”

5) After standing for two or three days that man saw the Blessed One coming in the distance. Having seen him, the man approached the chamberlains Isidatta and Purāṇa and told them:

— “Sirs, this Blessed One is coming, the Arahant, the Perfectly Enlightened One. You may come at your own convenience.”

1) Nhân duyên ở Sàvatthi.

2) Lúc bấy giờ nhiều Tỷ-kheo đang làm y cho Thế Tôn, nghĩ rằng: “Khi y xong, Thế Tôn sau ba tháng sẽ ra đi, du hành”.

3) Lúc bấy giờ, Isidatta và Puràna, hai người thợ mộc trú ở Sàdhuka vì một vài công việc phải làm. Hai người thợ mộc Isidatta và Puràna nghe rằng nhiều Tỷ-kheo đang làm y cho Thế Tôn, khi y làm xong, Thế Tôn sau ba tháng sẽ ra đi, du hành.

4) Rồi hai thợ mộc Isidatta và Puràna đặt một người đứng ở giữa đường và dặn:

— Này Ông, khi nào Ông thấy Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đi đến, hãy báo tin cho chúng tôi biết.

5) Sau khi đứng hai, ba ngày, người ấy thấy Thế Tôn từ xa đi đến, thấy vậy liền đi đến hai người thợ mộc Isidatta và Puràna và nói với họ:

— Thưa Quý vị, bậc Thế Tôn ấy đã đến, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Nay là thời Quý vị nghĩ phải làm gì.

 

6) Then the chamberlains Isidatta and Purāṇa approached the Blessed One, paid homage to him, and followed closely behind him.

7) Then the Blessed One left the road, went to the foot of a tree, and sat down on a seat that was prepared for him. The chamberlains Isidatta and Purāṇa paid homage to the Blessed One, sat down to one side, and said to him:

8) — “Venerable sir, when we hear that the Blessed One will set out from Sāvatthī on tour among the Kosalans, on that occasion there arises in us distress and displeasure at the thought: ‘The Blessed One will be far away from us.’ Then when we hear that the Blessed One has set out from Sāvatthī on tour among the Kosalans, on that occasion there arises in us distress and displeasure at the thought: ‘The Blessed One is far away from us.’

9) “Further, venerable sir, when we hear that the Blessed One will set out from among the Kosalans on tour in the Mallan country … that he has set out from among the Kosalans on tour in the Mallan country … that he will set out from among the Mallans on tour in the Vajjian country … that he has set out from among the Mallans on tour in the Vajjian country … that he will set out from among the Vajjians on tour in the Kāsian country … that he has set out from among the Vajjians on tour in the Kāsian country … that he will set out from among the Kāsians on tour in Magadha, on that occasion there arises in us  distress and displeasure at the thought: ‘The Blessed One will be far away from us.’ Then when we hear that the Blessed One has set out from among the Kāsians on tour in Magadha, on that occasion there arises in us great distress and displeasure at the thought: ‘The Blessed One is far away from us.’

6) Rồi hai người thợ mộc Isidatta và Puràna đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đi theo sau lưng Thế Tôn.

7) Rồi Thế Tôn đi xuống đường, đến một gốc cây; sau khi đến, ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Isidatta và Puràna đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Ngồi một bên, hai người thợ mộc Isidatta và Puràna bạch Thế Tôn:

8) — Bạch Thế Tôn, khi chúng con được nghe: “Thế Tôn sẽ đi khỏi Sàvatthi để du hành giữa dân chúng Kosala”; khi ấy, chúng con không được hoan hỷ, có sự ưu buồn, nghĩ rằng: “Thế Tôn sẽ ở xa chúng ta”. Và khi, bạch Thế Tôn, chúng con được nghe: “Thế Tôn đã đi khỏi Sàvatthi, đang du hành giữa dân chúng Kosala”; khi ấy, chúng con không được hoan hỷ, có sự ưu buồn, nghĩ rằng: “Thế Tôn đã ở xa chúng ta”.

9) Bạch Thế Tôn, khi chúng con được nghe: “Thế Tôn sẽ đi khỏi dân chúng Kosala để du hành giữa dân chúng Malla”; khi ấy, chúng con không hoan hỷ, có ưu buồn, nghĩ rằng: “Thế Tôn sẽ ở xa chúng ta”. Và khi, bạch Thế Tôn, chúng con được nghe: “Thế Tôn đã ra đi khỏi dân chúng Kosala, và đang du hành giữa dân chúng Malla”; khi ấy, chúng con không hoan hỷ, có ưu buồn, nghĩ rằng: “Thế Tôn đã ở xa chúng ta”.

10) Bạch Thế Tôn, khi chúng con được nghe: “Thế Tôn sẽ ra đi khỏi dân chúng Malla để du hành giữa dân chúng Vajji”; khi ấy, chúng con không hoan hỷ, có ưu buồn, nghĩ rằng: “Thế Tôn sẽ ở xa chúng ta”; Và khi, bạch Thế Tôn, chúng con được nghe: “Thế Tôn đã ra đi khỏi dân chúng Malla, và đang du hành giữa dân chúng Vajji”; khi ấy, chúng con không hoan hỷ, có ưu buồn, nghĩ rằng: “Thế Tôn đã ở xa chúng ta”.

11) Bạch Thế Tôn, khi chúng con được nghe: “Thế Tôn sẽ ra đi khỏi dân chúng Vajji để du hành giữa dân chúng Kàsi”; khi ấy, chúng con không hoan hỷ, có ưu buồn, nghĩ rằng: “Thế Tôn sẽ ở xa chúng ta”. Và khi, bạch Thế Tôn, chúng con được nghe: “Thế Tôn đã ra đi khỏi dân chúng Vajji, và đang du hành giữa dân chúng Kàsi”; khi ấy, chúng con không hoan hỷ, có ưu buồn, nghĩ rằng: “Thế Tôn đã ở xa chúng ta”.

12) Bạch Thế Tôn, khi chúng con được nghe: “Thế Tôn sẽ ra đi khỏi dân chúng Kàsi để du hành giữa dân chúng Magadha”; khi ấy, chúng con không hoan hỷ, có ưu buồn, nghĩ rằng: “Thế Tôn sẽ ở xa chúng ta”. Và khi, bạch Thế Tôn, chúng con được nghe: “Thế Tôn đã ra đi khỏi dân chúng Kàsi, và đang du hành giữa dân chúng Magadha”; khi ấy, chúng con không hoan hỷ, có ưu buồn, nghĩ rằng: “Thế Tôn đã ở xa chúng ta”.

 

13) “But, venerable sir, when we hear that the Blessed One will set out from among the Magadhans on tour in the Kāsian country, on that occasion there arises in us elation and joy at the thought: ‘The Blessed One will be near to us.’ Then when we hear that the Blessed One has set out from among the Magadhans on tour in the Kāsian country, on that occasion there arises in us elation and joy at the thought: ‘The Blessed One is near to us.’

 

“Further, venerable sir, when we hear that the Blessed One will set out from among the Kāsians on tour in the

Vajjian country … that he has set out from among the Kāsians on tour in the Vajjian country … that he will set out from among the Vajjians on tour in the Mallan country … that he has set out from among the Vajjians on tour in the Mallan country … that he will set out from among the Mallans on tour in Kosala … that he has set out from among the Mallans on tour in Kosala … that he will set out from among the Kosalans on tour to Sāvatthī, on that occasion there arises in us elation and joy at the thought: ‘The Blessed One will be near to us.’ Then, venerable sir, when we hear that the Blessed One is dwelling at Sāvatthī, in Jeta’s Grove, Anāthapiṇḍika’s Park, on that occasion there arises in us great elation and joy at the thought: ‘The Blessed One is near to us.’”

13) Bạch Thế Tôn, khi chúng con được nghe: “Thế Tôn sẽ ra đi khỏi dân chúng Magadha để du hành giữa dân chúng Kàsi”; khi ấy, chúng con được vui vẻ, có sự hoan hỷ, nghĩ rằng: “Thế Tôn sẽ ở gần chúng ta”. Khi chúng con được nghe: “Thế Tôn đã ra đi khỏi dân chúng Magadha và đang du hành ở Kàsi”; khi ấy, chúng con được vui vẻ, có sự hoan hỷ, (nghĩ rằng): “Thế Tôn đã ở gần chúng ta”.

14) … “khỏi dân chúng Kàsi để du hành ở giữa dân chúng Vajji..”.

15) … “khỏi dân chúng Vajji để du hành ở giữa dân chúng Malla..”.

16) … “khỏi dân chúng Malla để du hành ở giữa dân chúng Kosala..”.

17) Bạch Thế Tôn, khi chúng con được nghe: “Thế Tôn sẽ ra đi khỏi dân chúng Kosala, để du hành giữa dân chúng Sàvatthi”; khi ấy, chúng con được vui vẻ, có sự hoan hỷ, (nghĩ rằng): “Thế Tôn sẽ ở gần chúng ta”. Khi chúng con được nghe: “Thế Tôn trú ở Sàvatthi, Thắng Lâm, khu vườn ông Anàthapindika”; khi ấy vô lượng là sự vui vẻ của chúng con, vô lượng là hoan hỷ của chúng con (nghĩ rằng): “Thế Tôn đã ở gần chúng ta”.

 

18) “Therefore, chamberlains, the household life is confinement, a path of dust. The going forth is like the open air. It is enough for you, chamberlains, to be diligent.”

19) “Venerable sir, we are subject to another confinement even more confining and considered more confining than the former one.”

— “But what, chamberlains, is that other confinement to which you are subject, which is even more confining and considered more confining than the former one?”

20) “Here, venerable sir, when King Pasenadi of Kosala wants to make an excursion to his pleasure garden, after we have prepared his riding elephants we have to place the king’s dear and beloved wives on their seats, one in front and one behind. Now, venerable sir, the scent of those ladies is just like that of a perfumed casket briefly opened; so it is with the royal ladies wearing scent. Also, venerable sir, the bodily touch of those ladies is just like that of a tuft of cotton wool or kapok; so it is with the royal ladies so delicately nurtured. Now on that occasion, venerable sir, the elephants must be guarded, and those ladies must be guarded, and we ourselves must be guarded, yet we do not recall giving rise to an evil state of mind in regard to those ladies.

21) This, venerable sir, is that other confinement to which we are subject, which is even more confining and considered more confining than the former one.”

18) — Do vậy, này các người Thợ mộc, chật hẹp là đời sống ở gia đình, đầy những bụi đời! Phóng khoáng giữa trời là đời sống người xuất gia! Như vậy là vừa đủ, này các người Thợ mộc, để các Ông không có phóng dật.

19) — Nhưng bạch Thế Tôn, ở đây chúng con có đàn áp khác, còn áp bức hơn, còn bội phần áp bức hơn.

— Thế nào là sự đàn áp khác, này các người Thợ mộc, còn áp bức hơn, còn bội phần hơn?

20) — Ở đây, bạch Thế Tôn, khi vua Pasenadi nước Kosala muốn đi ra viếng thăm khu vườn, thời các con voi của vua Pasenadi nước Kosala cần phải được chúng con chuẩn bị và trang sức, và các cung phi khả ái, khả ý của vua Pasenadi nước Kosala cần phải có chúng con đặt ngồi một người ngồi trước, một người ngồi sau. Bạch Thế Tôn, mùi hương của các cung phi ấy thật là thơm ngọt như một hộp nước hoa vừa được mở ra, các cung phi của vua được ướp với mùi thơm như vậy. Lại nữa, bạch Thế Tôn, thân xúc các cung phi này thật là mềm dịu như một túm bông hoa hồng, vì họ được nuôi dưỡng rất an lạc. Bạch Thế Tôn, trong lúc ấy, chúng con cần phải hộ trì cho voi, cần phải hộ trì cho các cung phi, cần phải hộ trì cho tự ngã nữa.

21) Dầu vậy, bạch Thế Tôn, chúng con không rõ biết sự khởi lên ái tâm đối với các cung phi ấy. Ðây, bạch Thế Tôn, là đàn áp khác, còn áp bức hơn, còn bội phần áp bức hơn!

 

22) “Therefore, chamberlains, the household life is confinement, a path of dust. The going forth is like the open air. It is enough for you, chamberlains, to be diligent.

23) The noble disciple, chamberlains, who possesses four things is a stream-enterer, no longer bound to the nether world, fixed in destiny, with enlightenment as his destination. “What four?

24) Here, chamberlains, a noble disciple possesses confirmed confidence in the Buddha thus: ‘The Blessed One is … teacher of devas and humans, the Enlightened One, the Blessed One.’ He possesses confirmed confidence in the Dhamma … in the Saṅgha. … He dwells at home with a mind devoid of the stain of stinginess, freely generous, open-handed, delighting in relinquishment, one devoted to charity, delighting in giving and sharing. A noble disciple who possesses these four things is a stream-enterer, no longer bound to the nether world, fixed in destiny, with enlightenment as his destination.

22) — Do vậy, này các người Thợ mộc, chật hẹp là đời sống ở gia đình, đầy những bụi đời! Phóng khoáng giữa trời là đời sống người xuất gia! Như vậy là vừa đủ, này các người Thợ mộc, để các Người không có phóng dật!

23) Này các người Thợ mộc, thành tựu bốn pháp, vị Thánh đệ tử là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc chứng quả giác ngộ. Thế nào là bốn?

24) Ở đây, này các người Thợ mộc, vị Thánh đệ tử thành tựu lòng tin bất động đối với đức Phật: “Ðây là bậc Ứng Cúng, … Phật, Thế Tôn”… đối với Pháp… đối với chúng Tăng… Vị ấy sống ở gia đình, với tâm gột sạch cấu uế, xan tham. Vị ấy thường bố thí, bàn tay rộng mở, ưa thích từ bỏ, thích được nhờ cậy, thích thú chia xẻ vật được bố thí. Thành tựu bốn pháp này, này các người Thợ mộc, vị Thánh đệ tử là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc chứng quả giác ngộ.

 

25) “Chamberlains, you possess confirmed confidence in the Buddha … in the Dhamma … in the Saṅgha.… Moreover, whatever there is in your family that is suitable for giving, all that you share unreservedly among those who are virtuous and of good character.

26) What do you think, carpenters, how many people are there among the Kosalans who are your equals, that is, in regard to giving and sharing?”

27) “It is a gain for us, venerable sir, it is well gained by us, venerable sir, that the Blessed One understands us so well.”

25) Này các người Thợ mộc, các Người thành tựu lòng tin bất động đối với đức Phật: “Ðây là bậc Ứng Cúng, … Phật, Thế Tôn”… đối với Pháp… đối với chúng Tăng. Trong gia đình các Người, phàm có vật được bố thí nào, tất cả đều được chia xẻ hoàn toàn và vô tư cho những vị có trì giới và các thiện nhân.

26) Các Ông nghĩ thế nào, này các người Thợ mộc, có bao nhiêu người ở tại Kosala có thể ngang bằng các Ông về phần chia vật bố thí?

27) — Thật lợi đắc cho chúng con, bạch Thế Tôn! Thật khéo lợi đắc cho chúng con, bạch Thế Tôn, được Thế Tôn biết chúng con như vậy!

 

  

7 (7) The People of Bamboo Gate – Những Người Ở Veludvàra 

 

1) Thus, have I heard.

On one occasion, the Blessed One was walking on tour among the Kosalans together with a great Saṅgha of bhikkhus when he reached the brahmin village of the Kosalans named Bamboo Gate.

2) Then the brahmin householders of Bamboo Gate heard: “It is said, sirs, that the ascetic Gotama, the son of the Sakyans who went forth from a Sakyan family, has been walking on tour among the Kosalans together with a great Saṅgha of bhikkhus and has arrived at Bamboo Gate. Now a good report concerning that Master Gotama has spread about thus: ‘That Blessed One is an arahant, perfectly enlightened, accomplished in true knowledge and conduct, fortunate, knower of the world, unsurpassed leader of persons to be tamed, teacher of devas and humans, the Enlightened One, the Blessed One. Having realized by his own direct knowledge this world with its devas, Māra, and Brahmā, this generation with its ascetics and brahmins, its devas and humans, he makes it known to others. He teaches a Dhamma that is good in the beginning, good in the middle, good in the end, with the right meaning and phrasing; he reveals a holy life that is perfectly complete and pure.’ It is good to see such arahants.”

3) Then those brahmin householders of Bamboo Gate approached the Blessed One. Having approached, some paid homage to the Blessed One and sat down to one side. Some greeted the Blessed One and, having exchanged greetings and cordial talk, sat down to one side. Some extended their joined hands in reverential salutation towards the Blessed One and sat down to one side. Some announced their name and clan to the Blessed One and sat down to one side. Some remained silent and sat down to one side.

4) Sitting to one side, those brahmin householders of Bamboo Gate said to the Blessed One:

— “Master Gotama, we have such wishes, desires, and hopes as these: ‘May we dwell in a home crowded with children! May we enjoy Kāsian sandalwood! May we wear garlands, scents, and unguents! May we receive gold and silver! With the breakup of the body, after death, may we be reborn in a good destination, in a heavenly world!’ As we have such wishes, desires, and hopes, let Master Gotama teach us the Dhamma in such a way that we might dwell in a home crowded with children … and with the breakup of the body, after death, we might be reborn in a good destination, in a heavenly world.”

1) Như vầy tôi nghe.

Một thời, Thế Tôn đang đi du hành giữa Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo và đi đến một làng Bà-la-môn của dân chúng Kosala tên là Veludvàra.

2) Các Bà-la-môn gia chủ ở Veludvàra được nghe: “Sa-môn Gotama là Thích tử, đã xuất gia từ gia tộc họ Thích, đang đi du hành giữa dân chúng Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo và đã đến Veludvàra”. Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về Thế Tôn Gotama: “Ðây là bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Với thắng trí, Ngài tự thân chứng ngộ thế giới này cùng với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, cùng với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người. Sau khi chứng ngộ, Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện có nghĩa, có văn. Ngài truyền dạy Phạm hạnh hoàn toàn, đầy đủ, trong sạch. Tốt lành thay, sự chiêm ngưỡng một vị A-la-hán như vậy!”

3) Rồi các Bà-la-môn gia chủ ở Veludvàra đi đến Thế Tôn. Sau khi đến, một số đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; một số nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên; một số chấp tay vái chào Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; một số nói lên với Thế Tôn tên và dòng họ rồi ngồi xuống một bên; một số im lặng ngồi xuống một bên.

4) Ngồi một bên, các Bà-la-môn gia chủ ở Veludvàra bạch Thế Tôn:

— Thưa Tôn giả Gotama, chúng tôi có ước vọng như thế này, có ước muốn như thế này, có chú tâm (adhippàya) như thế này: “Mong rằng chúng tôi được sống trong một nhà chật đầy trẻ con! Mong chúng tôi được sử dụng các hương chiên đàn từ Kàsi! Mong rằng chúng tôi được trang sức bằng vòng hoa và phấn sáp! Mong rằng chúng tôi được sử dụng vàng và bạc! Sau khi thân hoại mạng chung, mong rằng chúng tôi được sanh thiện thú, thiên giới, cõi đời này!” Mong rằng Tôn giả Gotama hãy thuyết pháp cho chúng tôi, những người có ước vọng như vậy, có ước muốn như vậy, có chú tâm như vậy. Hãy thuyết pháp như thế nào để chúng tôi được sống trong một nhà chật đầy trẻ con, để chúng tôi được sử dụng các hương chiên đàn từ Kàsi… để chúng tôi, khi thân hoại mạng chung, được sanh thiện thú, thiên giới, cõi đời này.

 

5) — “I will teach you, householders, a Dhamma exposition applicable to oneself. Listen to that and attend closely, I will speak.”

— “Yes, sir,” those brahmin householders of Bamboo Gate replied. The Blessed One said this:

— “What, householders, is the Dhamma exposition applicable to oneself?

6) Here, householders, a noble disciple reflects thus: ‘I am one who wishes to live, who does not wish to die; I desire happiness and am averse to suffering. Since I am one who wishes to live … and am averse to suffering, if someone were to take my life, that would not be pleasing and agreeable to me. Now if I were to take the life of another—of one who wishes to live, who does not wish to die, who desires happiness and is averse to suffering—that would not be pleasing and agreeable to the other either. What is displeasing and disagreeable to me is displeasing and disagreeable to the other too. How can I inflict upon another what is displeasing and disagreeable to me?’ Having reflected thus, he himself abstains from the destruction of life, exhorts others to abstain from the destruction of life, and speaks in praise of abstinence from the destruction of life. Thus, this bodily conduct of his is purified in three respects.

7) “Again, householders, a noble disciple reflects thus: ‘If someone were to take from me what I have not given, that is, to commit theft, that would not be pleasing and agreeable to me. Now if I were to take from another what he has not given, that is, to commit theft, that would not be pleasing and agreeable to the other either. What is displeasing and disagreeable to me is displeasing and disagreeable to the other too. How can I inflict upon another what is displeasing and disagreeable to me?’ Having reflected thus, he himself abstains from taking what is not given, exhorts others to abstain from taking what is not given, and speaks in praise of abstinence from taking what is not given. Thus, this bodily conduct of his is purified in three respects.

8) “Again, householders, a noble disciple reflects thus: ‘If someone were to commit adultery with my wives, that would not be pleasing and agreeable to me. Now if I were to commit adultery with the wives of another, that would not be pleasing and agreeable to the other either. What is displeasing and disagreeable to me is displeasing and disagreeable to the other too. How can I inflict upon another what is displeasing and disagreeable to me?’ Having reflected thus, he himself abstains from sexual misconduct, exhorts others to abstain from sexual misconduct, and speaks in praise of abstinence from sexual misconduct. Thus, this bodily conduct of his is purified in three respects.

5) — Vậy này các Gia chủ, Ta sẽ thuyết cho các Ông một pháp môn đưa đến lợi ích (tự lợi cho tự ngã) (attuupanàyikam). Hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng.

— Thưa vâng, Tôn giả.

Các Bà-la-môn ở Veludvàra vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:

— Này các Gia chủ, thế nào là pháp môn đưa đến lợi ích cho tự ngã?

6) Ở đây, này các Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: “Ta muốn sống, không muốn chết, muốn lạc, ghét khổ. Nếu có ai đến đoạt mạng sống của ta, một người muốn sống, không muốn chết, muốn lạc, ghét khổ, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý đối với ta. Nhưng nếu ta đoạt mạng sống một người muốn sống, không muốn chết, muốn lạc, ghét khổ, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý đối với người ấy. Một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời pháp ấy cũng không khả ái, không khả ý cho người khác. Và một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời sao ta lại đem cột pháp ấy cho người khác?” Do suy tư như vậy, vị ấy từ bỏ sát sanh, khuyến khích người khác từ bỏ sát sanh, nói lời tán thán từ bỏ sát sanh. Như vậy, về thân hành, vị ấy được hoàn toàn thanh tịnh (kotiparisuddham).

7) Lại nữa, này các Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy tư như sau: “Nếu có ai lấy của không cho của ta, gọi là ăn trộm, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho ta. Nhưng nếu ta lấy của không cho của người khác, gọi là ăn trộm, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho người ấy. Một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời pháp ấy cũng không khả ái, không khả ý cho người khác. Và một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời sao lại đem cột pháp ấy cho người khác?” Do suy tư như vậy, vị ấy từ bỏ lấy của không cho, khuyến khích người khác từ bỏ lấy của không cho, nói lời tán thán từ bỏ lấy của không cho. Như vậy, về thân hành, vị ấy được hoàn toàn thanh tịnh.

8) Lại nữa, này các Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: “Nếu ai có tà hạnh với vợ của ta, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho ta. Nhưng nếu ta có tà hạnh với vợ của người khác, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho người ấy. Một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời pháp này không khả ái, không khả ý cho người khác. Và một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời sao ta lại đem cột pháp ấy cho người khác?” Do suy tư như vậy, vị ấy tự mình từ bỏ tà hạnh trong các dục, khuyến khích người khác từ bỏ tà hạnh trong các dục, nói lời tán thán từ bỏ tà hạnh trong các dục. Như vậy, về thân hành, vị ấy được hoàn toàn thanh tịnh.

 

9) “Again, householders, a noble disciple reflects thus: ‘If someone were to damage my welfare with false speech, that would not be pleasing and agreeable to me. Now if I were to damage the welfare of another with false speech, that would not be pleasing and agreeable to the other either. [355] What is displeasing and disagreeable to me is displeasing and disagreeable to the other too. How can I inflict upon another what is displeasing and disagreeable to me?’ Having reflected thus, he himself abstains from false speech, exhorts others to abstain from false speech, and speaks in praise of abstinence from false speech. Thus, this verbal conduct of his is purified in three respects.

10) “Again, householders, a noble disciple reflects thus: ‘If someone were to divide me from my friends by divisive speech, that would not be pleasing and agreeable to me. Now if I were to divide another from his friends by divisive speech, that would not be pleasing and agreeable to the other either.…’ Thus, this verbal conduct of his is purified in three respects.

11) “Again, householders, a noble disciple reflects thus: ‘If someone were to address me with harsh speech, that would not be pleasing and agreeable to me. Now if I were to address another with harsh speech, that would not be pleasing and agreeable to the other either.…’ Thus, this verbal conduct of his is purified in three respects.

9) Lại nữa, này các Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: “Nếu có ai làm tổn hại lợi ích ta với lời nói láo, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho ta. Nhưng nếu ta cũng làm tổn hại lợi ích người khác với lời nói láo, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho người ấy. Một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời pháp này không khả ái, không khả ý cho người khác. Và một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời sao ta lại đem cột pháp ấy cho người khác?” Do suy tư như vậy, vị ấy tự mình từ bỏ nói láo, khuyến khích người khác từ bỏ nói láo, nói lời tán thán từ bỏ nói láo. Như vậy, về khẩu hành, vị ấy được hoàn toàn thanh tịnh.

10) Lại nữa, này các Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy tư như sau: “Nếu có ai chia rẽ bạn bè ta bằng lời nói hai lưỡi,như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho ta. Nhưng nếu ta chia rẽ bạn bè người khác bằng lời nói hai lưỡi, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho người ấy. Một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời pháp này không khả ái, không khả ý cho người khác. Và một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời sao ta lại đem cột pháp ấy cho người khác?” Do suy tư như vậy, vị ấy tự mình từ bỏ nói hai lưỡi, khuyến khích người khác từ bỏ nói lời hai lưỡi, nói lời tán thán từ bỏ nói lời hai lưỡi. Như vậy, về khẩu hành, vị ấy được hoàn toàn thanh tịnh.

11) Lại nữa, này các Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy tư như sau: “Nếu có ai đối xử với ta bằng thô ác ngữ, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho ta. Nhưng nếu ta cũng đối xử với người khác bằng thô ác ngữ, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho người ấy. Một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời pháp này không khả ái, không khả ý cho người khác. Và một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời sao ta lại đem cột pháp ấy cho người khác?” Do suy tư như vậy, vị ấy tự mình từ bỏ thô ác ngữ, khuyến khích người khác từ bỏ thô ác ngữ, nói lời tán thán từ bỏ thô ác ngữ. Như vậy, về khẩu hành, vị ấy được hoàn toàn thanh tịnh.

 

12) “Again, householders, a noble disciple reflects thus: ‘If someone were to address me with frivolous speech and idle chatter, that would not be pleasing and agreeable to me. Now if I were to address another with frivolous speech and idle chatter, that would not be pleasing and agreeable to the other either. What is displeasing and disagreeable to me is displeasing and disagreeable to the other too. How can I inflict upon another what is displeasing and disagreeable to me?’ Having reflected thus, he himself abstains from idle chatter, exhorts others to abstain from idle chatter, and speaks in praise of abstinence from idle chatter. Thus, this verbal conduct of his is purified in three respects.

13-16) “He possesses confirmed confidence in the Buddha thus: ‘The Blessed One is … teacher of devas and humans, the Enlightened One, the Blessed One.’  He possesses confirmed confidence in the Dhamma … in the Saṅgha.… He possesses the virtues dear to the noble ones, unbroken … leading to concentration.

17) “When, householders, the noble disciple possesses these seven good qualities and these four desirable states, if he wishes he could by himself declare of himself: ‘I am one finished with hell, finished with the animal realm, finished with the domain of ghosts, finished with the plane of misery, the bad destinations, the nether world. I am a stream-enterer, no longer bound to the nether world, fixed in destiny, with enlightenment as my destination.’”

12) Lại nữa, này các Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy tư như sau: “Nếu có ai đối xử với ta với lời tạp ngữ, với lời phù phiếm, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho ta. Nhưng nếu ta cũng đối xử với người khác với lời tạp ngữ, với lời phù phiếm, như vậy là một việc không khả ái, không khả ý cho người ấy. Một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời pháp này không khả ái, không khả ý cho người khác. Và một pháp này không khả ái, không khả ý cho ta, thời sao ta lại đem cột pháp ấy cho người khác?” Do suy tư như vậy, vị ấy tự mình từ bỏ lời nói phù phiếm, khuyến khích người khác từ bỏ nói lời phù phiếm, tán thán từ bỏ nói lời phù phiếm. Như vậy, về khẩu hành, vị ấy được hoàn toàn thanh tịnh.

13) Vị ấy thành tựu lòng tin bất động đối với đức Phật: “Ðây là bậc A-la-hán… Phật, Thế Tôn”.

14) … đối với Pháp…

15) … đối với chúng Tăng…

16) Vị ấy thành tựu các giới được các bậc Thánh ái kính, không bị phá hoại, không bị đâm cắt, không bị điểm ố, không bị uế nhiễm, đem lại giải thoát, được người trí tán thán, không bị chấp thủ, đưa đến Thiền định.

17) Này các Gia chủ, khi nào vị Thánh đệ tử thành tựu bảy pháp này và bốn lời nguyện xứ này, nếu vị ấy muốn, vị ấy có thể tuyên bố về mình: “Ta đã đoạn tận địa ngục, đoạn tận khỏi sanh vào loại bàng sanh, đoạn tận cõi ngạ quỷ, đoạn tận ác sanh, ác thú, đọa xứ. Ta là bậc Dự lưu, không có bị thối đọa, quyết chắc chứng quả giác ngộ”.

 

18) When this was said, the brahmin householders of Bamboo Gate said:

— “Magnificent, Master Gotama!… We go for refuge to Master Gotama, and to the Dhamma, and to the Bhikkhu Saṅgha. From today let the Blessed One remember us as lay followers who have gone for refuge for life.”

18) Ðược nói vậy, các Bà-la-môn gia chủ ở Veludvàra bạch Thế Tôn:

— Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn… từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng!

  

8 (8) The Brick Hall (1) – Giảng Ðường Bằng Gạch (1)

 

1) Thus, have I heard.

On one occasion the Blessed One was dwelling at Ñātika in the Brick Hall.

2) Then the Venerable Ānanda approached the Blessed One, paid homage to him, sat down to one side, and said to him:

— “Venerable sir, the bhikkhu named Sāḷha has died. What is his destination, what is his future bourn? The bhikkhunī named Nandā has died. What is her destination, what is her future bourn? The male lay follower named Sudatta has died. What is his destination, what is his future bourn? The female lay follower named Sujātā has died. What is her destination, what is her future bourn?”

3) — “Ānanda, the bhikkhu Sāḷha who has died, by the destruction of the taints, in this very life had entered and dwelt in the taintless liberation of mind, liberation by wisdom, realizing it for himself with direct knowledge. The bhikkhunī Nandā who has died had, with the utter destruction of the five lower fetters, [357] become one of spontaneous birth, due to attain Nibbāna there without returning from that world. The male lay follower Sudatta who has died had, with the utter destruction of three fetters and with the diminishing of greed, hatred, and delusion, become a once-returner who, after coming back to this world only one more time, will make an end to suffering.331 The female lay follower Sujātā who has died had, with the utter destruction of three fetters, become a stream-enterer, no longer bound to the nether world, fixed in destiny, with enlightenment as her destination.

4) “It is not surprising, Ānanda, that a human being should die. But if each time someone has died you approach and question me about this matter, that would be troublesome for the Tathāgata. Therefore, Ānanda, I will teach you a Dhamma exposition called the mirror of the Dhamma, equipped with which a noble disciple, if he wishes, could by himself declare of himself: ‘I am one finished with hell, finished with the animal realm, finished with the domain of ghosts, finished with the plane of misery, the bad destinations, the nether world. I am a stream-enterer, no longer bound to the nether world, fixed in destiny, with enlightenment as my destination.’

5) “And what, Ānanda, is that Dhamma exposition, the mirror of the Dhamma, equipped with which a noble disciple, if he wishes, could by himself declare thus of himself?

6) Here, Ānanda, a noble disciple possesses confirmed confidence in the Buddha thus: ‘The Blessed One is … teacher of devas and humans, the Enlightened One, the Blessed One.’ He possesses confirmed confidence in the Dhamma … in the Saṅgha.… He possesses the virtues dear to the noble ones, unbroken … leading to concentration.

7) “This, Ānanda, is that Dhamma exposition, the mirror of the Dhamma, equipped with which a noble disciple, if he wishes, could by himself declare of himself: ‘I am one finished with hell.… I am a stream-enterer, no longer bound to the nether world, fixed in destiny, with enlightenment as my destination.’”

1) Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn ở Nàtika, trong ngôi giảng đường bằng gạch.

2) Rồi Tôn giả Ànanda đi đến Thế Tôn; sau khi đến… bạch Thế Tôn:

— Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Sàlha đã mạng chung, sanh thú thế nào, thọ sanh chỗ nào? Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo-ni Nànda mệnh chung, sanh thú thế nào, thọ sanh chỗ nào? Bạch Thế Tôn, cư sĩ Sudatta mệnh chung, sanh thú thế nào, thọ sanh chỗ nào? Nữ cư sĩ Sujàtà mệnh chung, sanh thú thế nào, thọ sanh chỗ nào?

3) — Tỷ-kheo Sàlha, này Ànanda, đoạn tận các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Tỷ-kheo-ni Nànda, này Ànanda, mệnh chung, sau khi đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, từ chỗ ấy nhập Niết-bàn, không phải trở lui thế giới này. Cư sĩ Sudatta, này Ànanda, do đoạn diệt ba kiết sử, làm cho muội lược tham, sân, si, là bậc Nhất Lai, sau khi trở lui thế giới này một lần nữa, sẽ đoạn tận khổ đau. Nữ cư sĩ Sujàtà, này Ànanda, mạng chung, sau khi đoạn tận ba kiết sử, là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc chứng quả giác ngộ.

4) Này Ànanda, thật không có gì lạ vấn đề con người phải mệnh chung. Nhưng mỗi lần có người mệnh chung lại đến hỏi Như Lai về vấn đề này, thời này Ànanda, như vậy làm phiền nhiễu Như Lai. Này Ànanda, vì vậy Ta sẽ giảng pháp môn Pháp kính (gương Chánh pháp) để vị Thánh đệ tử sau khi thành tựu pháp môn này, nếu muốn, sẽ tự tuyên bố về mình như sau: “Ta đã đoạn tận địa ngục, đoạn tận khỏi sanh vào loài bàng sanh, đoạn tận cõi ngạ quỷ, đoạn tận ác sanh, ác thú, đọa xứ. Ta đã chứng quả Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc chứng quả giác ngộ”.

5) Này Ànanda, pháp môn Pháp kính ấy là gì mà Thánh đệ tử thành tựu pháp môn ấy, nếu muốn, sẽ tự mình tuyên bố về mình như sau: “Ta đã đoạn tận địa ngục… Ta đã chứng quả Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc chứng quả giác ngộ”?

6) Ở đây, này Ànanda, vị Thánh đệ tử thành tựu lòng tin bất động đối với đức Phật: “Ðây là bậc Ứng Cúng, … Phật, Thế Tôn”… với Pháp… với Tăng…. thành tựu các giới được các bậc Thánh ái kính… đưa đến Thiền định.

7) Ðây là pháp môn Pháp kính, này Ànanda, thành tựu pháp môn này, vị Thánh đệ tử nếu muốn, tự mình tuyên bố về mình như sau: “Ta đã đoạn tận địa ngục, đoạn tận khỏi sanh vào loài bàng sanh, đoạn tận cõi ngạ quỷ, đoạn tận ác sanh, ác thú, đọa xứ. Ta là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc chứng quả giác ngộ”.

8) (Kinh này và hai kinh sau đều cùng một nhân duyên).

9 (9) The Brick Hall (2) – Giảng Ðường Bằng Gạch (2)

 

1-2) … Sitting to one side, the Venerable Ānanda said to the Blessed One:

— “Venerable sir, the bhikkhu named Asoka has died. What is his destination, what is his future bourn? The bhikkhunī named Asokā has died. What is her destination, what is her future bourn? The male lay follower named Asoka has died. What is his destination, what is his future bourn? The female lay follower named Asokā has died. What is her destination, what is her future bourn?”

3-6) “Ānanda, the bhikkhu Asoka who has died, by the destruction of the taints, in this very life had entered and dwelt in the taintless liberation of mind, liberation by wisdom, realizing it for himself with direct knowledge.…

(all the rest as in the preceding sutta) …

7) “This, Ānanda, is that Dhamma exposition, the mirror of the Dhamma, equipped with which a noble disciple, if he wishes, could by himself declare of himself: ‘I am one finished with hell.… I am a stream-enterer, no longer bound to the nether world, fixed in destiny, with enlightenment as my destination.’”

1-2) … ngồi xuống một bên, Tôn giả Ànanda bạch Thế Tôn:

— Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Asokà đã mệnh chung, sanh thú của vị ấy thế nào, sanh xứ chỗ nào? Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo-ni Asokà đã mệnh chung… Nam cư sĩ Asokà đã mệnh chung… Nữ cư sĩ Asokà đã mệnh chung, sanh thú của vị ấy thế nào, sanh xứ chỗ nào?

3-6) — Này Ànanda, Tỷ-kheo Asokà đã mệnh chung, sau khi đoạn tận các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát… (như kinh trên 8, đoạn số 3 với Tỷ-kheo-ni Asokà, nam cư sĩ Asokà và nữ cư sĩ Asokà) …

7) Này Ànanda, đây là pháp môn Pháp kính, thành tựu pháp môn này, vị Thánh đệ tử nếu muốn, tự mình tuyên bố về mình: “Ta đã đoạn tận địa ngục, ta đã đoạn tận khỏi sanh vào loài bàng sanh, ta đã đoạn tận cõi ngạ quỷ, ta đã đoạn tận ác sanh, ác thú, đọa xứ. Ta là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc chứng quả giác ngộ”.

 

10 (10) The Brick Hall (3) – Ngôi Nhà Bằng Gạch (3)

 

1-2) … Sitting to one side, the Venerable Ānanda said to the Blessed One:

— “Venerable sir, the male lay follower named Kakkaṭa has died in Ñātika. What is his destination, what is his future bourn? The male lay follower named Kāḷiṅga … Nikata … Kaṭissaha … Tuṭṭha … Santuṭṭha … Bhadda … Subhadda has died in Ñātika. What is his destination, what is his future bourn?”

3) — “Ānanda, the male lay follower Kakkaṭa who has died had, with the utter destruction of the five lower fetters, become one of spontaneous birth, due to attain Nibbāna there without returning from that world. So too the male lay followers Kāḷiṅga, Nikata, Kaṭissaha, Tuṭṭha, Santuṭṭha, Bhadda, and Subhadda.

4) “The more than fifty male lay followers who have died in Ñātika had, with the utter destruction of the five lower fetters, become of spontaneous birth, due to attain Nibbāna there without returning from that world. The male lay followers exceeding ninety who have died in Ñātika had, with the utter destruction of three fetters and with the diminishing of greed, hatred, and delusion, become once-returners who, after coming back to this world only one more time, will make an end to suffering. The five hundred and six males lay followers who have died in Ñātika had, with the utter destruction of three fetters, become stream-enterers, no more bound to the nether world, fixed in destiny, with enlightenment as their destination.

5-7) “It is not surprising, Ānanda, that a human being should die. But if each time someone has died you approach and question me about this matter, that would be troublesome for the Tathāgata. Therefore, Ānanda, I will teach you a Dhamma exposition called the mirror of the Dhamma.… “And what, Ānanda, is that Dhamma exposition, the mirror of the Dhamma…?”

(The remainder of the sutta as in §8.)

1-2) … ngồi xuống một bên, Tôn giả Ànanda bạch Thế Tôn:

— Cư sĩ ở Nàtika tên Kakkata đã mệnh chung, sanh thú của vị ấy thế nào, sanh xứ chỗ nào? Cư sĩ ở Nàtika tên Kàlinga, bạch Thế Tôn, đã mệnh chung, sanh thú của vị ấy thế nào, sanh xứ chỗ nào? Cư sĩ ở Nàtika tên Nikata… Cư sĩ Katissaha… Cư sĩ Tuttha… Cư sĩ Santuttha… Cư sĩ Dhadda… Cư sĩ Subhadda ở Nàtika, bạch Thế Tôn, đã mệnh chung, sanh thú của vị ấy thế nào, sanh xứ chỗ nào?

3) — Cư sĩ Kakkata, này Ànanda, đã mệnh chung, sau khi đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, từ đấy nhập Niết-bàn, không còn phải trở lui cõi đời này. Cư sĩ Kàlinga, này Ànanda… Cư sĩ Nikata, này Ànanda… Cư sĩ Katissaha, này Ànanda… Cư sĩ Tuttha, này Ànanda… Cư sĩ Santuttha, này Ànanda… Cư sĩ Bhadda, này Ànanda… Cư sĩ Subhadda, này Ànanda, sau khi đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, từ đấy nhập Niết-bàn, không còn phải trở lui cõi đời này nữa. Tất cả đều cùng một sanh thú.

4) Hơn năm mươi cư sĩ ở Nàtika, này Ànanda, đã mệnh chung, sau khi đoạn tận năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, từ đấy nhập Niết-bàn, không còn phải trở lui cõi đời này nữa. Hơn chín mươi nam cư sĩ ở Nàtika, này Ànanda, đã mệnh chung, sau khi đoạn diệt ba kiết sử, sau khi làm cho muội lược tham, sân, là bậc Nhứt Lai, sau khi trở lui thế giới này một lần nữa, sẽ đoạn tận khổ đau. Năm trăm lẻ sáu nam cư sĩ ở Sàkata, này Ànanda, đã mệnh chung, sau khi đoạn diệt ba kiết sử, là bậc Dự lưu, không còn thối đọa, quyết chắc chứng quả giác ngộ.

5-7) Này Ànanda, thật không có gì lạ vấn đề con người phải mệnh chung. Nhưng mỗi lần có người mệnh chung, Ông lại đến hỏi Như Lai về vấn đề này; thời này Ànanda, như vậy làm phiền nhiễu Như Lai… (xem trên 9, đoạn số 4,5,6,7) … quyết chắc chứng quả giác ngộ.

 

II. THE THOUSANDFOLD, OR ROYAL PARK – Phẩm Một Ngàn, hay Vườn Vua

  

11 (1) The Thousand – Một Ngàn

 

1) On one occasion, the Blessed One was dwelling at Sāvatthī in the Royal Park. 2) Then a Saṅgha of a thousand bhikkhunīs approached the Blessed One, paid homage to him, and stood to one side.

3) The Blessed One said to those bhikkhunīs:

— “Bhikkhunīs, a noble disciple who possesses four things is a stream-enterer, no longer bound to the nether world, fixed in destiny, with enlightenment as his destination. What four?

4) Here, bhikkhunīs, a noble disciple possesses confirmed confidence in the Buddha thus: ‘The Blessed One is … teacher of devas and humans, the Enlightened One, the Blessed One.’

5-7) … He possesses confirmed confidence in the Dhamma … in the Saṅgha.… He possesses the virtues dear to the noble ones, unbroken … leading to concentration.

8) “A noble disciple, bhikkhunīs, who possesses these four things is a stream-enterer, no longer bound to the nether world, fixed in destiny, with enlightenment as his destination.”

1) Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi, tại khu vườn Ràjaka.

2) Rồi một chúng gồm một ngàn Tỷ-kheo-ni đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên.

3) Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo-ni đang đứng một bên:

— Này các Tỷ-kheo-ni, vị Thánh đệ tử thành tựu bốn pháp là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc chứng quả giác ngộ. Thế nào là bốn?

4) Ở đây, này các Tỷ-kheo-ni, vị Thánh đệ tử thành tựu lòng tin bất động đối với đức Phật: “Ðây là bậc Ứng Cúng, … Phật, Thế Tôn”.

5-6) … đối với Pháp… đối với Tăng…

7) Vị ấy thành tựu các giới được bậc Thánh ái kính… đưa đến Thiền định.

8) Thành tựu bốn pháp này, này các Tỷ-kheo-ni, bậc Thánh đệ tử là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc chứng quả giác ngộ.

 

12 (2) The Brahmins – Các Bà La Môn

 

1-2) At Sāvatthī.

3) — “Bhikkhus, the brahmins proclaim a way called ‘going upwards.’ They enjoin a disciple thus: ‘Come, good man, get up early and walk facing east. Do not avoid a pit, or a precipice, or a stump, or a thorny place, or a village pool, or a cesspool. You should expect death wherever you fall. Thus, good man, with the breakup of the body, after death, you will be reborn in a good destination, in a heavenly world.’

4) “Now this practice of the brahmins, bhikkhus, is a foolish course, a stupid course; it does not lead to revulsion, to dispassion, to cessation, to peace, to direct knowledge, to enlightenment, to Nibbāna. But I, bhikkhus, proclaim the way going upwards in the Noble One’s Discipline, the way which leads to utter revulsion, to dispassion, to cessation, to peace, to direct knowledge, to enlightenment, to Nibbāna.

5) “And what, bhikkhus, is that way going upwards, which leads to utter revulsion … to Nibbāna. [362] Here, bhikkhus, a noble disciple possesses confirmed confidence in the Buddha thus: ‘The Blessed One is … teacher of devas and humans, the Enlightened One, the Blessed One.’ He possesses confirmed confidence in the Dhamma … in the Saṅgha.… He possesses the virtues dear to the noble ones, unbroken … leading to concentration.

6) “This, bhikkhus, is that way going upwards, which leads to utter revulsion, to dispassion, to cessation, to peace, to direct knowledge, to enlightenment, to

Nibbāna.”

1-2) Nhân duyên ở Sàvatthi.

3) — Này các Tỷ-kheo, các Bà-la-môn trình bày một đạo lộ hướng thượng (udayagàminim). Họ khuyến khích các đệ tử như sau: “Hãy đến, này các Ông! Sáng sớm dậy, hãy đi hướng mặt về phía Ðông. Chớ có tránh những lỗ hổng, lỗ trũng, khúc cây, chỗ có gai, hố nước nhớp, chớ có tránh đường mương. Nếu có rơi vào các chỗ ấy và đi đến chết, như vậy, này các Ông, sau khi thân hoại mạng chung, các Ông sẽ sanh lên thiện thú, thiên giới, cõi đời này”.

4) Nhưng này các Tỷ-kheo, con đường ấy của các Bà-la-môn là con đường của kẻ ngu, con đường của kẻ si, không đưa đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Này các Tỷ-kheo, nay Ta trình bày một đạo lộ hướng thượng trong luật của bậc Thánh, và con đường ấy nhứt hướng đưa đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Và này các Tỷ-kheo, đạo lộ hướng thượng ấy là gì, đạo lộ đưa đến nhứt hướng yếm ly… Niết-bàn?

5) Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử thành tựu lòng tin bất động đối với đức Phật: “Ðây là bậc Ứng Cúng, …”…. đối với pháp… đối với chúng Tăng… Vị ấy thành tựu các giới được các bậc Thánh ái kính… đưa đến Thiền định.

6) Ðây là đạo lộ đưa đến hướng thượng, này các Tỷ-kheo,… nhứt hướng yếm ly… đưa đến Niết-bàn.

 

13 (3) Ānanda – Ànanda 

 

  • On one occasion, the Venerable Ānanda and the

Venerable Sāriputta were dwelling at Sāvatthī in Jeta’s Grove, Anāthapiṇḍika’s Park.

2) Then, in the evening, the Venerable Sāriputta emerged from seclusion, approached the Venerable Ānanda, and exchanged greetings with him. When they had concluded their greetings and cordial talk, he sat down to one side and said to the Venerable Ānanda:

3) — “Friend Ānanda, by the abandoning of how many things and because of possessing how many things are people declared by the Blessed One thus: ‘This one is a stream-enterer, no longer bound to the nether world, fixed in destiny, with enlightenment as his destination’?”

4) — “It is, friend, by the abandoning of four things and because of possessing four things that people are declared thus by the Blessed One. What four?

1) Một thời, Tôn giả Ànanda và Tôn giả Sàriputta trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika.

2) Rồi Tôn giả Sàriputta, vào buổi chiều, từ chỗ Thiền tịnh đứng dậy, đi đến Tôn giả Ànanda; sau khi đến, nói lên với Tôn giả Ànanda những lời chào đón hỏi thăm. Sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, Tôn giả ngồi xuống một bên. Tôn giả Sàriputta nói với Tôn giả Ànanda:

3) — Do đoạn tận những pháp nào, này Hiền giả Ànanda, do nhân thành tựu những pháp nào, quần chúng ở đời này được Thế Tôn tuyên bố là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc chứng quả giác ngộ?

4) — Do đoạn tận bốn pháp, thưa Hiền giả, do nhân thành tựu bốn pháp, quần chúng ở đời này được Thế Tôn tuyên bố là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc chứng quả giác ngộ. Thế nào là bốn?

 

5) “One does not have, friend, that distrust regarding the Buddha which the uninstructed worldling possesses, because of which the latter, with the breakup of the body, after death, is reborn in the plane of misery, in a bad destination, in the nether world, in hell. And one has that confirmed confidence in the Buddha which the instructed noble disciple possesses, because of which the latter, with the breakup of the body, after death, is reborn in a good destination, in a heavenly world: ‘The Blessed One is … teacher of devas and humans, the

Enlightened One, the Blessed One.’ 

6) “One does not have, friend, that distrust regarding the Dhamma which the uninstructed worldling possesses, because of which the latter, with the breakup of the body, after death, is reborn in the plane of misery, in a bad destination, in the nether world, in hell. And one has that confirmed confidence in the Dhamma which the instructed noble disciple possesses, because of which the latter, with the breakup of the body, after death, is reborn in a good destination, in a heavenly world: ‘The Dhamma is well expounded by the Blessed One … to be personally experienced by the wise.’

5) Kẻ vô văn phàm phu, này Hiền giả, không thành tựu tịnh tín đối với đức Phật, khi thân hoại mạng chung, sanh vào ác sanh, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Như vậy là không có tịnh tín đối với đức Phật. Và vị Ða văn Thánh đệ tử, thưa Hiền giả, thành tựu tịnh tín bất động đối với đức Phật, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, thiên giới, cõi đời này. Như vậy là tịnh tín bất động đối với đức Phật: “Ðây là bậc Ứng Cúng,… Phật, Thế Tôn”.

6) Kẻ vô văn phàm phu, này Hiền giả, không thành tựu tịnh tín đối với Pháp, khi thân hoại mạng chung, sanh vào ác sanh, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Như vậy là không có tịnh tín đối với Pháp. Và vị Ða văn Thánh đệ tử thành tựu tịnh tín bất động đối với Pháp… Như vậy là tịnh tín bất động đối với Pháp: “Pháp được Thế Tôn khéo thuyết… chỉ người có trí mới giác hiểu”.

 

7) “One does not have, friend, that distrust regarding the Saṅgha which the uninstructed worldling possesses, because of which the latter, with the breakup of the body, after death, is reborn in the plane of misery, in a bad destination, in the nether world, in hell. And one has that confirmed confidence in the Saṅgha which the instructed noble disciple possesses, because of which the latter, with the breakup of the body, after death, is reborn in a good destination, in a heavenly world: ‘The Saṅgha of the Blessed One’s disciples is practising the good way … the unsurpassed field of merit for the world.’

8) “One does not have, friend, that immorality which the uninstructed worldling possesses, because of which the latter, with the breakup of the body, after death, is reborn in the plane of misery, in a bad destination, in the nether world, in hell. And one has those virtues dear to the noble ones which the instructed noble disciple possesses, because of which the latter, with the breakup of the body, after death, is reborn in a good destination, in a heavenly world: virtues dear to the noble ones … leading to concentration.

“It is, friend, by the abandoning of these four things and because of possessing these four things that people are declared by the Blessed One thus: ‘This one is a stream-enterer, no longer bound to the nether world, fixed in destiny, with enlightenment as his destination.’”

7) Kẻ vô văn phàm phu, này Hiền giả, không thành tựu tịnh tín đối với chúng Tăng… Như vậy là tịnh tín bất động đối với chúng Tăng: “Diệu hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn… vô thượng phước điền ở đời”.

8) Kẻ vô văn phàm phu, này Hiền giả, thành tựu ác giới… Như vậy là không có tịnh tín bất động… Như vậy tịnh tín bất động đối với các giới: “Các giới được các bậc Thánh ái kính… đưa đến Thiền định”.

9) Do đoạn tận bốn pháp này, này Hiền giả, do nhân thành tựu bốn pháp này, quần chúng ở đời này được Thế Tôn tuyên bố là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc chứng quả giác ngộ.

 

14 (4) Bad Destination (1) – Ác Thú (1)

 

1-3) — “Bhikkhus, a noble disciple who possesses four things has transcended all fear of a bad destination. What four?

4-7) Here, bhikkhus, a noble disciple possesses confirmed confidence in the Buddha thus: ‘The Blessed One is … teacher of devas and humans, the Enlightened One, the Blessed One.’ He possesses confirmed confidence in the Dhamma … in the Saṅgha.… He possesses the virtues dear to the noble ones, unbroken … leading to concentration.

8) A noble disciple who possesses these four things has transcended all fear of a bad destination.”

1-3) — Do thành tựu bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử vượt qua sợ hãi của tất cả ác thú. Thế nào là bốn?

4-7) Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử thành tựu tịnh tín bất động đối với đức Phật: “Ðây là bậc Ứng Cúng,… Phật, Thế Tôn”… đối với Pháp… đối với chúng Tăng… thành tựu các giới được các bậc Thánh ái kính… đưa đến Thiền định.

8) Do thành tựu bốn pháp này, vị Thánh đệ tử vượt qua sợ hãi của tất cả ác thú.

 

15 (5) Bad Destination (2) – Ác Thú (2) 

 

1-3) — “Bhikkhus, a noble disciple who possesses four things has transcended all fear of a bad destination, of the nether world. What four?”

4-8) (Complete as in the preceding sutta.)

1-3) — Do thành tựu bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử vượt qua sợ hãi của tất cả ác thú, đọa xứ. Thế nào là bốn?

4-7) … (như đoạn số 4-7, kinh trên) …

8) Do thành tựu bốn pháp này, vị Thánh đệ tử vượt qua sợ hãi của tất cả ác thú, đọa xứ…

  

16 (6) Friends and Colleagues (1) – Thân Hữu (1) 

 

1-3) — “Bhikkhus, those for whom you have compassion and who think you should be heeded—whether friends or colleagues, relatives or kinsmen—these you should exhort, settle, and establish in the four factors of streamentry.  

“What four?

4) You should exhort, settle, and establish them in confirmed confidence in the Buddha thus: ‘The Blessed One is … teacher of devas and humans, the Enlightened One, the Blessed One.’ You should exhort, settle, and establish them in confirmed confidence in the Dhamma … in the Saṅgha … in the virtues dear to the noble ones, unbroken … leading to concentration.

5) “Those for whom you have compassion … these you should exhort, settle, and establish in these four factors of stream-entry.”

1-3) — Tất cả những ai, này các Tỷ-kheo, các Ông có lòng từ mẫn, và những người mà các Ông nghĩ cần phải nghe theo, những ai là bạn bè, hay thân hữu, hay bà con, hay cùng một huyết thống; tất cả những vị ấy, này các Tỷ-kheo, cần phải được khuyến khích, phải được áp đặt, phải được an trú trong bốn Dự lưu phần. Thế nào là bốn?

4) Họ cần phải được khuyến khích, phải được áp đặt, phải được an trú vào tịnh tín bất động đối với đức Phật: “Ðây là bậc Ứng Cúng,… Phật, Thế Tôn”… đối với Pháp… đối với Tăng… đối với các giới được các bậc Thánh ái kính… đưa đến Thiền định.

5) Những ai mà các Ông có lòng từ mẫn, này các Tỷ-kheo, những ai mà các Ông nghĩ là cần phải nghe theo, các bạn bè, hay thân hữu, hay bà con, hay cùng một huyết thống; các người ấy cần phải được khuyến khích, cần phải được áp đặt, cần phải được an trú trong bốn Dự lưu phần này.

 

17 (7) Friends and Colleagues (2) – Bạn Bè Thân Hữu (2)

 

1-3) — “Bhikkhus, those for whom you have compassion and who think you should be heeded—whether friends or colleagues, relatives or kinsmen—these you should exhort, settle, and establish in the four factors of streamentry.

“What four?

4) You should exhort, settle, and establish them in confirmed confidence in the Buddha thus: ‘The Blessed One is … teacher of devas and humans, the

Enlightened One, the Blessed One.’… “Bhikkhus, there may be alteration in the four great elements—in the earth element, the water element, the heat element, the air element—but there cannot be alteration in the noble disciple who possesses confirmed confidence in the Buddha. Therein this is alteration: that the noble disciple who possesses confirmed confidence in the Buddha might be reborn in hell, in the animal realm, or in the domain of ghosts. This is impossible.

1-3) — Những ai, này các Tỷ-kheo, các Ông có lòng từ mẫn, những ai mà các Ông nghĩ rằng cần phải nghe theo, các bạn bè, thân hữu, hay bà con, hay cùng một huyết thống; các người ấy cần phải được các Ông khuyến khích, áp đặt, an trú trong bốn Dự lưu phần. Thế nào là bốn?

4) Cần phải khuyến khích, cần phải áp đặt, cần phải an trú trong tịnh tín bất động đối với Phật: “Ðây là bậc Ứng Cúng,… Phật, Thế Tôn”. Dầu cho, này các Tỷ-kheo, bốn đại chủng địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại có đổi khác, nhưng nhất định không có thay đổi trong vị Thánh đệ tử đã thành tựu tịnh tín bất động đối với đức Phật. Ở đây, sự đổi khác có nghĩa là: Một Thánh đệ tử thành tựu tịnh tín bất động như vậy sẽ sanh vào địa ngục, hay vào loài bàng sanh, hay vào hàng ngạ quỷ; sự kiện như vậy không xảy ra.

 

5-6) … “You should exhort, settle, and establish them in confirmed confidence in the Dhamma … in the Saṅgha … in the virtues dear to the noble ones … leading to concentration.

7) “Bhikkhus, there may be alteration in the four great elements … but there cannot be alteration in the noble disciple who possesses the virtues dear to the noble ones. Therein this is alteration: that the noble disciple who possesses the virtues dear to the noble ones might be reborn in hell, in the animal realm, or in the domain of ghosts. This is impossible.

8) “Those for whom you have compassion … these you should exhort, settle, and establish in these four factors of stream-entry.”

5-6) … đối với Pháp… đối với Tăng.

7) Cần phải khuyến khích, cần phải áp đặt, cần phải an trú vào các giới được các bậc Thánh ái kính. Dầu cho, này các Tỷ-kheo, bốn đại chủng địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại có đổi khác; nhưng nhất định không có sự đổi khác trong vị Thánh đệ tử đã thành tựu tịnh tín bất động đối với các giới được các bậc Thánh ái kính. Ở đây, sự đổi khác có nghĩa là vị Thánh đệ tử thành tựu các giới được các bậc Thánh ái kính, sẽ sanh vào địa ngục, hay các loài bàng sanh, hay các ngạ quỷ; sự kiện như vậy không xảy ra.

8) Những ai mà các Ông có lòng từ mẫn, này các Tỷ-kheo,… an trú trong bốn Dự lưu phần.

 

18 (8) Visiting the Devas (1) – Du Hành Chư Thiên

 

1) At Sāvatthī.

2) Then, just as quickly as a strong man might extend his drawn-in arm or draw in his extended arm, the Venerable Mahāmoggallāna disappeared from Jeta’s Grove and reappeared among the Tāvatiṃsa devas.

3) Then a number of devatās belonging to the Tāvatiṃsa host approached the Venerable Mahāmoggallāna, paid homage to him, and stood to one side. The Venerable Mahāmoggallāna then said to those devatās:

4) — “It is good, friends, to possess confirmed confidence in the Buddha thus: ‘The Blessed One is … teacher of devas and humans, the Enlightened One, the Blessed One.’ Because of possessing confirmed confidence in the Buddha, some beings here, with the breakup of the body, after death, are reborn in a good destination, in a heavenly world.

5-6) “It is good, friends, to possess confirmed confidence in the Dhamma … in the Saṅgha … to possess the virtues dear to the noble ones … leading to concentration. Because of possessing the virtues dear to the noble ones, some beings here, with the breakup of the body, after death, are reborn in a good destination, in a heavenly world.”

7-11) “It is good, sir Moggallāna, to possess confirmed confidence in the Buddha … in the Dhamma … in the Saṅgha … to possess the virtues dear to the nobles ones … leading to concentration. Because of possessing the virtues dear to the noble ones, some beings here, with the breakup of the body, after death, are reborn in a good destination, in a heavenly world.”

1) Nhân duyên ở Sàvatthi.

2) Rồi Tôn giả Mahà Moggalàna, như nhà lực sĩ duỗi ra cánh tay đang co lại, hay co lại cánh tay đang duỗi ra; cũng vậy, Tôn giả biến mất ở Jetavana và hiện ra ở cõi trời Ba mươi ba.

3) Rồi một số đông chư Thiên cõi Ba mươi ba đi đến Tôn giả Mohà Moggalàna; sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Mahà Moggalàna rồi đứng một bên. Tôn giả Mahà Moggalàna nói với chư Thiên đang đứng một bên:

4) — Lành thay, chư Hiền, là sự thành tựu tịnh tín bất động đối với đức Phật: “Ðây bậc Ứng Cúng,… Phật, Thế Tôn”. Do nhân thành tựu lòng tịnh tín bất động đối với đức Phật, như vậy ở đây, một số chúng sanh, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, thiên giới, cõi đời này.

5-6) Lành thay, chư Hiền, là tịnh tín bất động đối với Pháp… đối với chúng Tăng…

7) Lành thay, chư Hiền, là sự thành tựu các giới được các bậc Thánh ái kính… đưa đến Thiền định. Do nhân thành tựu các giới được các bậc Thánh ái kính, chư Hiền, như vậy ở đây, một số chúng sanh, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh thiện thú, thiên giới, cõi đời này.

8) — Lành thay, Tôn giả Moggalàna, là sự thành tựu lòng tịnh tín bất động đối với đức Phật: “Ðây là bậc Ứng Cúng,… Phật, Thế Tôn”. Do nhân thành tựu lòng tịnh tín bất động đối với đức Phật, thưa Tôn giả Moggalàna, như vậy ở đây, một số chúng sanh, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, thiên giới, cõi đời này.

9-11) Lành thay, Tôn giả Moggalàna, là sự thành tựu tịnh tín bất động đối với Pháp… đối với chúng Tăng… các giới được các bậc Thánh ái kính… đưa đến Thiền định. Do nhân thành tựu các giới được các bậc Thánh ái kính, thưa Tôn giả Moggalàna, như vậy ở đây, một số chúng sanh, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, thiên giới, cõi đời này.

  

19 (9) Visiting the Devas (2) –  Thăm Viếng Chư Thiên (1)

 

(This sutta is identical with the preceding one, except that wherever §18 reads “are reborn in a good destination,” the present sutta reads “have been reborn in a good destination.”)

1) Một thời Tôn giả Mahà Moggalàna trú ở Sàvatthi, Jetavana, tại khu vườn của ông Anàthapindika.

2-7) Rồi Tôn giả Moggalàna, như người lực sĩ… (như trên) …

8-11) … (như trên) … một số chúng sanh, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh thiện thú, thiên giới, cõi đời này.

  

20 (10) Visiting the Devas (3) – Thăm Viếng Chư Thiên (2)

 

Then, just as quickly as a strong man might extend his drawn-in arm or draw in his extended arm, the Blessed One disappeared from Jeta’s Grove and reappeared among the Tāvatiṃsa devas. Then a number of devatās belonging to the Tāvatiṃsa host approached the Blessed One, paid homage to him, [368] and stood to one side. The Blessed One then said to those devatās:

— “It is good, friends, to possess confirmed confidence in the Buddha thus: ‘The Blessed One is … teacher of devas and humans, the Enlightened One, the Blessed One.’ Because of possessing confirmed confidence in the Buddha, some beings here are stream-enterers, no longer bound to the nether world, fixed in destiny, with enlightenment as their destination.

— “It is good, friends, to possess confirmed confidence in the Dhamma … in the Saṅgha … to possess the virtues dear to the noble ones … leading to concentration. Because of possessing the virtues dear to the noble ones, some beings here are stream-enterers, no longer bound to the nether world, fixed in destiny, with enlightenment as their destination.”

— “It is good, dear sir, to possess confirmed confidence in the Buddha … in the Dhamma … in the Saṅgha … to possess the virtues dear to the nobles ones … leading to concentration. Because of possessing the virtues dear to the noble ones, some beings here are stream-enterers, no longer bound to the nether world, fixed in destiny, with enlightenment as their destination.”

(Giống như kinh 18, chỉ khác, đây là Thế Tôn, không phải Mahà Moggalàna) …

  

Sources:

Tài liệu tham khảo:

  1. http://www.budsas.org/uni/u-kinh-tuongungbo/tu5-55a.htm
  2. http://lirs.ru/lib/sutra/Connected_Discourses_of_the_Buddha(Samyutta_Nikaya).Vol.I.pdf
  3. https://theravada.vn/55-chuong-xi-tuong-ung-du-luu-a/