144. Quyển III – Chương 144. Kinh Giáo giới Channa – MN 144. Advice to Channa – Song ngữ

Middle-length Discourses of the Buddha

Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikaya)

Anh ngữ: Bhikkhu Ñāṇamoli

Việt ngữ: Hòa thượng Thích Minh Châu

Compile: Lotus group      

 

  1. Thus have I heard.

Như vầy tôi nghe.

 

On one occasion the Blessed One was living at Rajagaha in the Bamboo Grove, the Squirrels’ Sanctuary.

Một thời Thế Tôn ở Rajagaha (Vương Xá), Veluvana (Trúc-lâm), tại chỗ nuôi dưỡng sóc (Kalandakanivapa).

 

  1. Now on that occasion the venerable Sariputta, the venerable Maha Cunda, and the venerable Channa were living on the mountain Vulture Peak.

Lúc bấy giờ Tôn giả Sariputta (Xá lợi phất), Tôn giả Mahacunda (Đại Chu-na) và Tôn giả Channa (Xiển-đà) cùng trú ở Gijjhakuta (Linh Thứu).

 

  1. On that occasion the venerable Channa was afflicted, suffering, and gravely ill. Then, when it was evening, the venerable Sariputta rose from meditation, went to the venerable Maha Cunda, and said to him:

— “Friend Cunda, let us go to the venerable Channa and ask about his illness.”

— “Yes, friend,” the venerable Maha Cunda replied.

Lúc bấy giờ, Tôn giả Channa bị bệnh, đau khổ, bị trọng bệnh. Rồi Tôn giả Sariputta, vào buổi chiều từ Thiền tịnh độc cư đứng dậy, đi đến Tôn giả Mahacunda, sau khi đến, nói với Tôn giả Mahacunda:

— Chúng ta hãy đi, này Hiền giả Cunda, chúng ta hãy đi đến Tôn giả Channa để hỏi thăm bệnh trạng.

— Thưa vâng, Hiền giả.

Tôn giả Mahacunda vâng đáp Tôn giả Sariputta.

 

  1. Then the venerable Sariputta and the venerable Maha Cunda went to the venerable Channa and exchanged greetings with him. When [264] this courteous and amiable talk was finished, they sat down at one side and the venerable Sariputta said to the venerable Channa:

— “I hope you are getting well, friend Channa, I hope you are comfortable. I hope your painful feelings are subsiding and not increasing, and that their subsiding, not their increase, is apparent.”

Rồi Tôn giả Sariputta cùng với Tôn giả Mahacunda đi đến Tôn giả Channa; sau khi đến, nói lên với Tôn giả Channa những lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Sariputta nói với Tôn giả Channa:

— Này Hiền giả Channa, mong rằng Hiền giả có thể kham nhẫn! Mong rằng Hiền giả có thể chịu đựng! Mong rằng khổ thọ được giảm thiểu không có gia tăng, và sự giảm thiểu được rõ rệt, không có gia tăng!

 

  1. “Friend Sariputta, I am not getting well, I am not comfortable. My painful feelings are increasing, not subsiding; … (as Sutta 143, §4) … their increase and not their subsiding is apparent. I shall use the knife, friend Sariputta; I have no desire to live.”

— Thưa Hiền giả Sariputta, tôi không có thể kham nhẫn, tôi không có thể chịu đựng. Sự thống khổ của tôi gia tăng không có giảm thiểu, và sự gia tăng rõ rệt, không có giảm thiểu. Thưa Hiền giả Sariputta, tôi sẽ đem dao (cho tôi). Tôi không còn muốn sống.

 

  1. “Let the venerable Channa not use the knife. Let the venerable Channa live. We want the venerable Channa to live. If he lacks suitable food, I will go in search of suitable food for him. If he lacks suitable medicine, I will go in search of suitable medicine for him. If he lacks a proper attendant, I will attend on him. Let the venerable Channa not use the knife. Let the venerable Channa live. We want the venerable Channa to live.”

— Tôn giả Channa, chớ có đem lại con dao! Tôn giả Channa, hãy tiếp tục sống! Chúng tôi muốn Tôn giả Channa tiếp tục sống. Nếu Tôn giả Channa không có các món ăn tốt lành, tôi sẽ đi tìm các món ăn tốt lành cho Tôn giả Channa. Nếu Tôn giả Channa không có các dược phẩm tốt lành, tôi sẽ đi tìm các dược phẩm tốt lành cho Tôn giả Channa. Nếu Tôn giả Channa không có người thị giả thích đáng, tôi sẽ hầu hạ Tôn giả Channa. Tôn giả Channa chớ có đem lại con dao! Tôn giả Channa hãy tiếp tục sống! Chúng tôi muốn Tôn giả Channa tiếp tục sống.

 

  1. “Friend Sariputta, it is not that I have no suitable food and medicine or no proper attendant. But rather, friend Sariputta, the Teacher has long been worshipped by me with love, not without love; for it is proper for the disciple to worship the Teacher with love, not without love. Friend Sariputta, remember this: the bhikkhu Channa will use the knife blamelessly.”

— Thưa Hiền giả Sariputta, không phải tôi không có các món ăn tốt lành, cũng không phải tôi không có các dược phẩm tốt lành. Cũng không phải tôi không có thị giả thích đáng. Thưa Hiền giả Sariputta, trong một thời gian dài, tôi đã hầu hạ bậc Đạo Sư, làm cho (bậc Đạo sư) được đẹp lòng, không phải không được đẹp lòng. Thưa Hiền giả Sariputta, thật là thích đáng cho người đệ tử hầu hạ bậc Đạo Sư, làm cho (bậc Đạo Sư) được đẹp lòng, không phải không được đẹp lòng. Tỷ-kheo Channa đem lại con dao không có phạm tội. Thưa Hiền giả Sariputta, hãy thọ trì như vậy!

 

  1. “We would ask the venerable Channa certain questions, if the venerable Channa finds it opportune to reply.”

“Ask, friend Sariputta. When I have heard, I shall know.”

— Chúng tôi muốn hỏi Tôn giả Channa về một vấn đề đặc biệt, nếu Tôn giả Channa cho chúng tôi được phép đặt câu hỏi.

— Hãy bỏ đi, Hiền giả Sariputta; sau khi nghe, tôi sẽ biết (nói như thế nào).

 

  1. “Friend Channa, do you regard the eye, eye-consciousness, and things cognizable [by the mind] through eye-consciousness thus: ‘This is mine, this I am, [265] this is my self’? Do you regard the ear … the nose … the tongue … the body … the mind, mind-consciousness, and things cognizable [by the mind] through mind-consciousness thus: ‘This is mine, this I am, and this is my self’?”

— Hiền giả Channa, Hiền giả có xem con mắt, nhãn thức và các pháp do mắt nhận thức là: “Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi? ” Hiền giả Channa, Hiền giả có xem tai, nhĩ thức… Hiền giả Channa, Hiền giả có xem mũi, tỷ thức… Hiền giả Channa, Hiền giả có xem lưỡi, thiệt thức… Hiền giả Channa, Hiền giả có xem thân, thân thức… Hiền giả Channa, Hiền giả có xem ý, ý thức và các pháp do ý nhận thức là: “Cái này của tôi, cái này là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi?”

 

— “Friend Sariputta, I regard the eye, eye-consciousness, and things cognizable [by the mind] through eye-consciousness thus: ‘This is not mine, this I am not, this is not my self.’ I regard the ear … the nose … the tongue … the body … the mind, mind-consciousness, and things cognizable [by the mind] through mind-consciousness thus: ‘This is not mine, this I am not, this is not my self.’

— Hiền giả Sariputta, tôi xem mắt, nhãn thức và các pháp do mắt nhận thức là: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”. Hiền giả Sariputta, tôi xem tai, nhĩ thức… Hiền giả Sariputta, tôi xem mũi, tỷ thức… Hiền giả Sariputta, tôi xem cái lưỡi, thiệt thức… Hiền giả Sariputta, tôi xem thân, thân thức… Hiền giả Sariputta, tôi xem ý, ý thức, các pháp do ý nhận thức là: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”.

 

  1. “Friend Channa, what have you seen, what have you directly known in the eye, in eye-consciousness, and in things cognizable [by the mind] through eye-consciousness, that you regard them thus: ‘This is not mine, this I am not, this is not my self’? What have you seen, what have you directly known in the ear … in the nose … in the tongue … in the body … in the mind, in mind-consciousness, and in things cognizable [by the mind] through mind-consciousness, that you regard them thus: ‘This is not mine, this I am not, this is not my self’?”

— Này Hiền giả Channa, Hiền giả đã thấy cái gì, đã chứng tri cái gì trong mắt, trong nhãn thức, trong các pháp được mắt nhận thức mà Hiền giả xem mắt, nhãn thức và các pháp do mắt nhận thức là: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải là tự ngã của tôi?” Hiền giả Channa, Hiền giả đã thấy cái gì, đã chứng tri cái gì trong tai, trong nhĩ thức… trong mũi, trong tỷ thức… trong lưỡi, trong thiệt thức… trong thân, trong thân thức… trong ý, trong ý thức, trong các pháp do ý nhận thức mà Hiền giả xem ý, ý thức và các pháp do ý nhận thức là: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tự ngã của tôi “?

 

“Friend Sariputta, it is through seeing cessation, through directly knowing cessation in the eye, in eye-consciousness, and in things cognizable [by the mind] through eye-consciousness, that I regard them thus: ‘This is not mine, this I am not, this is not my self.’ It is through seeing cessation, through directly knowing cessation in the ear … in the nose … in the tongue … in the body … in the mind, in mind-consciousness, and in things cognizable [by the mind] through mind-consciousness, [266] that I regard them thus: ‘This is not mine, this I am not, this is not my self.’

— Thưa Hiền giả Sariputta, chính vì tôi thấy sự diệt (nirodha), chứng tri sự diệt trong mắt, trong nhãn thức, trong các pháp do mắt nhận thức, mà tôi xem mắt, nhãn thức, và các pháp do mắt nhận thức là: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”. Thưa Hiền giả Sariputta, chính vì tôi thấy sự diệt, chứng tri sự diệt trong tai, trong nhĩ thức… trong mũi, trong tỷ thức… trong lưỡi, trong thiệt thức… trong thân, trong thân thức… trong ý, trong ý thức, trong các pháp do ý nhận thức mà tôi xem ý, ý thức và các pháp do ý nhận thức là: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”.

 

  1. When this was said, the venerable Maha Cunda said to the venerable Channa:

— “Therefore, friend Channa, this instruction of the Blessed One’s is to be constantly given attention: ‘There is wavering in one who is dependent, there is no wavering in one who is independent; when there is no wavering, there is tranquillity; when there is tranquillity, there is no bias; when there is no bias, there is no coming and going; when there is no coming and going, there is no passing away and reappearing; when there is no passing away and reappearing, there is no here nor beyond nor in between. This is the end of suffering.’

Khi được nghe nói vậy, Tôn giả Mahacunda nói với Tôn giả Channa:

— Do vậy, này Hiền giả Channa, lời dạy này của Thế Tôn phải được thường trực tác ý: “Ai có chấp trước là có dao động. Ai không chấp trước không có dao động. Không có dao động, thời có khinh an; có khinh an thời không có hy cầu (nati); không có hy cầu thời không có khứ lai; không có khứ lai thời không có tử sanh; không có tử sanh thời không có đời này, không có đời sau, không có giữa hai đời. Như vậy là sự đoạn tận đau khổ”.

 

  1. Then when the venerable Sariputta and the venerable Maha Cunda had advised the venerable Channa thus, they rose from their seats and went away. Then, soon after they had gone, the venerable Channa used the knife.

Rồi Tôn giả Sariputta và Tôn giả Mahacunda sau khi giáo giới cho Tôn giả Channa, từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi. Rồi Tôn giả Channa, sau khi Tôn giả Sariputta và Tôn giả Mahacunda ra đi không bao lâu, đem dao lại (cho mình).

 

  1. Then the venerable Sariputta went to the Blessed One, and after paying homage to him, he sat down at one side and said to the Blessed One:

— “Venerable sir, the venerable Channa has used the knife. What is his destination, what is his future course?”

— “Sariputta, didn’t the bhikkhu Channa declare to you his blamelessness?”

— “Venerable sir, there is a Vajjian village called Pubbajira. There the venerable Channa had families that were his friends, families that were his intimates, families that were blameworthy.”

— “There are those families that were friends of the bhikkhu Channa, Sariputta, families that were his intimates, families that were blameworthy; but I do not say that to this extent he was blameworthy. Sariputta, when one lays down this body and clings to a new body, then I say one is blameworthy. There was none of that in the bhikkhu Channa; the bhikkhu Channa used the knife blamelessly.”

That is what the Blessed One said. The venerable Sariputta was satisfied and delighted in the Blessed One’s words.

Rồi Tôn giả Sariputta đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Sariputta bạch Thế Tôn:

— Bạch Thế Tôn, Tôn giả Channa đã đem dao lại (cho mình), sanh xứ của Tôn giả ấy là gì? Đời sống tương lai là gì?

— Này Sariputta, có phải trước mặt Ông Tỷ-kheo Channa đã tuyên bố sự không phạm tội?

— Bạch Thế Tôn, có một ngôi làng của dòng họ Vajji (Bạt-kỳ) tên là Pubbajira). Tại đấy, có những gia đình thân hữu, những gia đình hộ trì Tôn giả Channa, những gia đình cần được viếng thăm.

— Này Sariputta, có những gia đình ấy là những gia đình thân hữu, những gia đình hộ trì Tỷ-kheo Channa, những gia đình cần được viếng thăm. Này S ariputta, cho đến nay, Ta không nói rằng Tỷ-kheo Channa có phạm tội. Này Sariputta, ai quăng bỏ thân này, và chấp thủ thân khác, Ta nói rằng người ấy có phạm tội. Tỷ-kheo Channa không có (chấp thủ) như vậy. Tỷ-kheo Channa đem con dao lại (cho mình), không có phạm tội.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn giả Sariputta hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.

 

 

Sources:

Tài liệu tham khảo:

  1. http://thuvienhoasen.org/p15a1048/144-kinh-giao-gioi-channa-channovada-sutta
  2. http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/mn/
  3. http://lirs.ru/lib/sutra/The_Middle_Length_Discourses(Majjhima_Nikaya),Nanamoli, Bodhi, 1995.pdf
  4. https://theravada.vn/144-kinh-giao-gioi-channa-channovada-sutta/