136. Quyển III – Chương 136. Đại kinh Nghiệp phân biệt – MN 136. The Greater Exposition of Action – Song ngữ

Middle-length Discourses of the Buddha

Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikaya)

Anh ngữ: Bhikkhu Ñāṇamoli

Việt ngữ: Hòa thượng Thích Minh Châu

Compile: Lotus group      

 

  1. Thus have I heard.

Như vầy tôi nghe.

 

On one occasion the Blessed One was living at Rajagaha, in the Bamboo Grove, the Squirrels’ Sanctuary.

Một thời Thế Tôn ở Rajagaha (Vương Xá), Veluvana (Trúc Lâm), tại chỗ nuôi dưỡng sóc.

 

  1. Now on that occasion the venerable Samiddhi was living in a forest hut. Then the wanderer Potaliputta, while wandering and walking for exercise, went to the venerable Samiddhi and exchanged greetings with him. When this courteous and amiable talk was finished, he sat down at one side and said to the venerable Samiddhi:

Lúc bấy giờ Tôn giả Samiddhi trú tại một cái cốc trong rừng. Rồi du sĩ ngoại đạo Potaliputta tiêu dao tản bộ, tuần tự du hành, đi đến Tôn giả Samiddhi; sau khi đến, nói lên với Tôn giả Samiddhi những lời chào đón hỏi thăm. Sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên. Ngồi một bên, du sĩ ngoại đạo Potaliputta thưa với Tôn giả Samiddhi:

 

— “Friend Samiddhi, I heard and learned this from the recluse Gotama’s own lips: ‘Bodily action is vain, verbal action is vain, only r ental action is real.’ And: ‘There is that attainment on ente ig which one does not feel anything at all.’”

— “Do not say so, friend Potaliputta, do not say so. Do not misrepresent the Blessed One; it is not good to misrepresent the Blessed One. The Blessed One would not speak thus: ‘Bodily action is vain, verbal action is vain, only mental action is real.’ But, friend, there is that attainment on

entering which one does not feel anything at all.”

— Này Hiền giả Samiddhi, trước mặt Thế Tôn, tôi tự thân nghe, tự thân ghi nhận như sau: “Hư vọng là thân nghiệp, hư vọng là khẩu nghiệp, chỉ có ý nghiệp là chân thật. Và có một Thiền chứng (samapatti), do thành tựu Thiền chứng này, sẽ không có cảm giác gì”.

 

— Này Hiền giả Potaliputta, chớ có nói vậy. Này Hiền giả Potaliputta, chớ có nói vậy. Chớ có phỉ báng Thế Tôn; phỉ báng Thế Tôn là không tốt. Thế Tôn không có nói như vậy: “Hư vọng là thân nghiệp, hư vọng là khẩu nghiệp, chỉ có ý nghiệp là chân thật”. Và Hiền giả, có một Thiền Chứng, do thành tựu thiền chứng này, sẽ không có cảm giác gì.

 

“How long is it since you went forth, friend Samiddhi?”

–“Not long, friend: three years.”

–“There now, what shall we say to the elder bhikkhus when a young bhikkhu thinks the Teacher is to be defended thus? Friend Samiddhi, having done an intentional action by way of body, speech, or mind, what does one feel?”

— Ngài xuất gia đã bao lâu, thưa Hiền giả Samiddhi?

— Không lâu, thưa Hiền giả. Có ba năm.

— Nay ở đây chúng tôi còn hỏi các Tỷ-kheo trưởng lão làm gì khi một tân Tỷ-kheo nghĩ rằng cần phải bảo vệ vị Đạo sư như vậy. Thưa Hiền giả Samiddhi, khi một người có dụng ý làm thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp thời người ấy có cảm giác gì?

 

“Having done an intentional action by way of body, speech, or mind, one feels suffering, friend Potaliputta.”

Then, neither approving nor disapproving of the venerable Samiddhi’s words, the wanderer Potaliputta rose from his seat and departed.

— Này Hiền giả Potaliputta, khi một người có dụng ý làm thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp thời người ấy cảm giác khổ đau.

Rồi du sĩ ngoại đạo Potaliputta, không tán thán cũng không phản đối lời nói của Tôn giả Samiddhi. Không tán thán, không phản đối, du sĩ ngoại đạo Potaliputta từ chỗ ngồi đứng dậy rồi ra đi.

 

  1. Soon after the wanderer Potaliputta had left, the venerable Samiddhi went to the venerable Ananda [208] and exchanged greetings with him. When this courteous and amiable talk was finished, he sat down at one side and reported to the venerable Ananda his entire conversation with the wanderer Potaliputta. After he had spoken, the venerable Ananda told him:

— “Friend Samiddhi, this conversation should be told to the Blessed One. Come, let us approach the Blessed One and tell him this. As the Blessed One explains to us, so we shall bear it in mind.”

— “Yes, friend,” the venerable Samiddhi replied.

Rồi Tôn giả Samiddhi, sau khi du sĩ ngoại đạo Potaliputta ra đi không bao lâu, liền đi đến Tôn giả Ananda; sau khi đến, nói lên với Tôn giả Ananda những lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Samiddhi kể lại cho Tôn giả Ananda tất cả cuộc đàm thoại với du sĩ ngoại đạo Potaliputta. Sau khi nghe nói vậy, Tôn giả Ananda nói với Tôn giả Samiddhi:

— Này Hiền giả Samiddhi, đây là đề tài một câu chuyện cần phải yết kiến Thế Tôn. Này Hiền giả Samiddhi, chúng ta hãy đi đến Thế Tôn, sau khi đến hãy trình bày lên Thế Tôn rõ ý nghĩa này. Thế Tôn trả lời chúng ta như thế nào, chúng ta hãy như vậy thọ trì.

— Thưa vâng, Hiền giả.

 

  1. Then the venerable Ananda and the venerable Samiddhi went together to the Blessed One, and after paying homage to him, they sat down at one side. The venerable Ananda reported to the Blessed One the entire conversation between the venerable Samiddhi and the wanderer Potaliputta.

Tôn giả Samiddhi vâng đáp Tôn giả Ananda. Rồi Tôn giả Ananda và Tôn giả Samiddhi đi đến Thế Tôn; sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ananda, trình lên Thế Tôn tất cả câu chuyện giữa Tôn giả Samiddhi với du sĩ ngoại đạo Potaliputta.

 

  1. When he had finished, the Blessed One told the venerable Ananda:

–“Ananda, I do not even recall ever having seen the wanderer Potaliputta, so how could there have been this conversation? Though the wanderer Potaliputta’s question should have been analysed before being answered, this misguided man answered it one-sidedly.”

Khi nghe nói vậy, Thế Tôn nói với Tôn giả Ananda:

— Này Ananda, Ta chưa từng thấy du sĩ ngoại đạo Potaliputta, thời câu chuyện này từ đây xảy ra? Này Ananda, câu hỏi đáng lý phải trả lời phân tích rõ ràng cho du sĩ ngoại đạo Potaliputta, lại được kẻ ngu si Samiddhi này trả lời theo một chiều.

 

  1. When this was said, the venerable Udayin said to the Blessed One:

— “Venerable sir, perhaps the venerable Samiddhi spoke thus referring to [the principle]: ‘Whatever is felt is suffering.’”

— Then the Blessed One addressed the venerable Ananda: “See, Ananda, how this misguided man Udayin interferes. I knew, Ananda that this misguided man Udayin would unduly interfere right now. From the start the wanderer Potaliputta had asked about the three kinds of feeling. This misguided man Samiddhi [209] would have answered the wanderer Potaliputta rightly if, when asked thus, he would have explained: ‘Friend Potaliputta, having done an intentional action by way of body, speech, or mind [whose result is] to be felt as pleasant, one feels pleasure. Having done an intentional action by way of body, speech, or mind [whose result is] to be felt as painful, one feels pain. Having done an intentional action by way of body, speech, or mind [whose result is] to be felt as neither-pain-nor-pleasure, one feels neither-pain-nor-pleasure.’ But who are these foolish, thoughtless wanderers of other sects, that they could understand the Tathagata’s great exposition of action? You should listen, Ananda, to the Tathagata as he expounds the great exposition of action.”

Khi nghe nói vậy, Tôn giả Udayi bạch Thế Tôn:

 

— Bạch Thế Tôn, nếu đây là ý nghĩa của Tôn giả Samiddhi nói lên, thời cảm giác gì người ấy cảm thọ là cảm giác khổ đau.

 

Rồi Thế Tôn nói với Tôn giả Ananda:

 

— Này Ananda, hãy xem con đường sai lạc của kẻ ngu si Udayi này. Này Ananda, Ta biết rằng, nếu nay kẻ ngu si Udayi này mở miệng ra (đề cập vấn đề gì), ông ấy sẽ mở miệng đề cập một cách không như lý (ayoniso). Này Ananda, thật sự chỗ khởi thủy của du sĩ ngoại đạo Potaliputta hỏi là về ba cảm thọ. Này Ananda, nếu kẻ ngu si Samiddhi này được du sĩ ngoại đạo Potaliputta hỏi như vậy và trả lời như sau: “Này Hiền giả Potaliputta, nếu một ai có dụng ý làm thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp, có khả năng đưa đến lạc thọ, người ấy sẽ cảm giác lạc thọ. Này Hiền giả Potaliputta, nếu một ai có dụng ý làm thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp có khả năng đưa đến khổ thọ, người ấy sẽ cảm giác khổ thọ. Này Hiền giả Potaliputta, nếu một ai có dụng ý làm thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp có khả năng đưa đến bất khổ bất lạc thọ, người ấy sẽ cảm giác bất khổ bất lạc thọ”; nếu trả lời như vậy, này Ananda, kẻ ngu si Samiddhi đã trả lời một cách chơn chánh cho du sĩ ngoại đạo Potaliputta. Và lại nữa, này Ananda, những kẻ du sĩ ngoại đạo ngu si, kém học, họ sẽ hiểu được đại phân biệt về nghiệp của Như Lai, này Ananda, nếu Ông nghe Như Lai phân tích đại phân biệt về nghiệp”.

 

  1. “This is the time, Blessed One, this is the time, Sublime One, for the Blessed One to expound the great exposition of action. Having heard it from the Blessed One, the bhikkhus will remember it.”

— “Then listen, Ananda, and attend closely to what I shall say.”

— “Yes, venerable sir,”

The venerable Ananda replied. The Blessed One said this:

— Bạch Thế Tôn, nay đã đến thời; bạch Thiện Thệ nay đã đến thời, Thế Tôn hãy phân tích đại phân biệt về nghiệp! Sau khi nghe Thế Tôn, các Tỷ-kheo sẽ thọ trì.

— Vậy này Ananda, hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói:

— Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Tôn giả Ananda vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:

 

  1. “Ananda, there are four kinds of persons to be found existing in the world. What four? Here some person kills living beings, takes what is not given, misconducts himself in sensual pleasures, speaks falsehood, speaks maliciously, speaks harshly, gossips; he is covetous, has a mind of ill will, and holds wrong view. On the dissolution of the body, after death, he reappears in a state of deprivation, in an unhappy destination, in perdition, even in hell.

–“But here some person kills living beings … and holds wrong view. On the dissolution of the body, after death, he reappears in a happy destination, even in the heavenly world.

— “Here some person abstains from killing living beings, from taking what is not given, from misconduct in sensual pleasures, from false speech, from malicious speech, [210] from harsh speech, from gossip; he is not covetous, his mind is without ill will, and he holds right view. On the dissolution of the body, after death, he reappears in a happy destination, even in the heavenly world.

— “But here some person abstains from killing living beings … and he holds right view. On the dissolution of the body, after death, he reappears in a state of deprivation, in an unhappy destination, in perdition, even in hell.

— Này Ananda, có bốn loại người này có mặt ở đời. Thế nào là bốn? Ở đây, này Ananda, có người sát sanh, lấy của không cho, sống tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời ác khẩu, nói lời phù phiếm, có tham dục, có sân tâm, có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.

— Nhưng ở đây, này Ananda, có người sát sanh, có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này.

Ở đây, này Ananda, có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói ác khẩu, từ bỏ nói lời phù phiếm, từ bỏ tham dục, từ bỏ sân tâm, có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy được sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này.

–Nhưng ở đây, này Ananda, có người từ bỏ sát sanh, có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.

 

  1. “Here, Ananda, by means of ardour, endeavour, devotion, diligence, and right attention, some recluse or Brahmin attains such concentration of mind that, when his mind is concentrated, with the divine eye, which is purified and surpasses the human, he sees that person here who kills living beings … and holds wrong view, and he sees that on the dissolution of the body, after death, he has reappeared in a state of deprivation, in an unhappy destination, in perdition, even in hell. He says thus: ‘Indeed, there are evil actions, there is result of misconduct; for I saw a person here who killed living beings … and held wrong view, and I see that on the dissolution of the body, after death, he has reappeared in a state of deprivation … even in hell.’ He says thus: ‘On the dissolution of the body, after death, everyone who kills living beings … and holds wrong view reappears in a state of deprivation … even in hell. Those who know thus know rightly; those who think otherwise are mistaken.’ Thus he obstinately adheres to what he himself has known, seen, and discovered, insisting: ‘Only this is true, anything else is wrong.’

Ở đây, này Ananda, có vị Sa-môn hay Bà-la-môn nhờ nhiệt tâm, nhờ tinh tấn, nhờ cần mẫn, nhờ không phóng dật, nhờ chánh tác ý, nên tâm nhập định. Khi tâm nhập định, nhờ thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, vị ấy thấy có người ở đây sát sanh, lấy của không cho, sống tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói ác khẩu, nói lời phù phiếm, có tham dục, có sân tâm, có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Vị ấy nói như sau: “Thật sự có những ác nghiệp, có quả báo ác hạnh. Và ta đã thấy có người ở đây sát sanh, lấy của không cho… nói hai lưỡi… có tà kiến, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục”. Vị ấy nói như sau: “Chắc chắn tất cả mọi người sát sanh, lấy của không cho… có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, họ đều sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục”. Những ai biết như vậy, những vị ấy biết một cách chơn chánh. Những ai biết khác như vậy, trí của họ thuộc tà trí. Như vậy, điều vị ấy tự mình biết, tự mình thấy, tự mình hiểu rõ, ở đây, vị ấy nắm giữ, chấp trước và tuyên bố: “Chỉ như vậy mới chơn thực, ngoài ra đều là hư vọng”.

 

  1. “But here, Ananda, [211] by means of ardour … some recluse or Brahmin attains such a concentration of mind that, when his mind is concentrated, with the divine eye, which is purified and surpasses the human, he sees that person here who kills living beings … and holds wrong view, and he sees that on the dissolution of the body, after death, he has reappeared in a happy destination, even in the heavenly world. He says thus: ‘Indeed, there are no evil actions, there is no result of misconduct; for I saw a person here who killed living beings … and held wrong view, and I see that on the dissolution of the body, after death, he has reappeared in a happy destination, even in the heavenly world.’ He says thus: ‘On the dissolution of the body, after death, everyone who kills living beings … and holds wrong view reappears in a happy destination, even in the heavenly world. Those who know thus know rightly; those who think otherwise are mistaken.’ Thus he obstinately adheres to what he himself has known, seen, and discovered, insisting: ‘Only this is true, anything else is wrong.’

Ở đây, này Ananda, có Sa-môn hay Bà-la-môn, nhờ nhiệt tâm, nhờ tinh tấn,… vị ấy thấy có người sát sanh, lấy của không cho… có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, vị ấy được sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Vị ấy nói như sau: “Thật sự không có những ác nghiệp, không có quả báo ác hạnh. Và ta đã thấy có người ở đây sát sanh, lấy của không cho… có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, được sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Vị ấy nói như sau: “Chắc chắn tất cả mọi người sát sanh, lấy của không cho… có tà kiến; “sau khi thân hoại mạng chung, họ đều được sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này”. Những ai biết như vậy, những vị ấy biết một cách chơn chánh. Những ai biết khác như vậy, trí của họ thuộc tà kiến”. Như vậy, điều vị ấy tự mình biết, tự mình thấy, tự mình hiểu rõ, ở đây vị ấy nắm giữ, chấp trước và tuyên bố: “Chỉ như vậy mới chân thực, ngoài ra đều là hư vọng”.

 

  1. “Here, Ananda, by means of ardour … some recluse or Brahmin attains such a concentration of mind that, when his mind is concentrated, with the divine eye, which is purified and surpasses the human, he sees that person here who abstains from killing living beings … and holds right view, and he sees that on the dissolution of the body, after death, he has reappeared in a happy destination, even in the heavenly world. He says thus: ‘Indeed, there are good actions, there is result of good conduct; for I saw a person here who abstained from killing living beings … and held right view, and I see that on the dissolution of the body, after death, he has reappeared in a happy destination, even in the heavenly world.’ He says thus: ‘On the dissolution of the body, after death, everyone who abstains from killing living beings … and holds right view reappears in a happy destination, even in the heavenly world. Those who know thus know rightly; those who think otherwise are mistaken.’ Thus he obstinately adheres to what he himself has known, seen, and discovered, insisting: ‘Only this is true, anything else is wrong.’

Ở đây, này Ananda, có Sa-môn hay Bà-la-môn, nhờ nhiệt tâm, nhờ tinh tấn,… vị ấy thấy có người ở đây từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho… có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Vị ấy nói như sau: “Thật sự có những thiện nghiệp, có quả báo thiện hạnh. Và ta đã thấy có người ở đây từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho… có chánh kiến sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này”. Vị ấy nói như sau: “Chắc chắn tất cả mọi người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho… có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, họ đều sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Những ai biết như vậy, những vị ấy biết một cách chơn chánh. Những ai biết khác như vậy, trí của họ thuộc tà trí”. Như vậy, điều này vị ấy tự mình biết, tự mình thấy, tự mình hiểu rõ, ở đây vị ấy nắm giữ, chấp trước và tuyên bố: “Chỉ như vậy mới chơn thực, ngoài ra đều là hư vọng”.

 

  1. “But here, Ananda, [212] by means of ardour … some recluse or Brahmin attains such a concentration of mind that, when his mind is concentrated, with the divine eye, which is purified and surpasses the human, he sees that person here who abstains from killing living beings … and holds right view, and he sees that on the dissolution of the body, after death, he reappears in a state of deprivation, in an unhappy destination, in perdition, even in hell. He says thus: ‘Indeed, there are no good actions, there is no result of good conduct; for I saw a person here who abstained from killing living beings … and held right view, and I see that on the dissolution of the body, after death, he has reappeared in a state of deprivation … even in hell.’ He says thus: ‘On the dissolution of the body, after death, everyone who abstains from killing living beings … and holds right view reappears in a state of deprivation … even in hell. Those who know thus know rightly; those who think otherwise are mistaken.’ Thus he obstinately adheres to what he himself has known, seen, and discovered, insisting: ‘Only this is true, anything else is wrong.’

Ở đây, này Ananda, có Sa-môn… vị ấy thấy có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho… có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Vị ấy nói như sau: “Thật sự không có những thiện nghiệp, không có quả báo thiện hạnh. Và Ta đã thấy có người ở đây từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho… có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục”. Vị ấy nói như sau: “Chắc chắn tất cả mọi người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho… có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, họ đều bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Những ai biết như vậy, những vị ấy biết một cách chân chánh. Những ai biết khác như vậy, trí của họ thuộc tà kiến”. Như vậy, điều vị ấy tự mình biết, tự mình thấy, tự mình hiểu rõ, ở đây vị ấy nắm giữ, chấp trước và tuyên bố: “Chỉ như vậy mới chân thực, ngoài ra đều là hư vọng”.

 

  1. “Therein, Ananda, when a recluse or Brahmin says: ‘Indeed, there are evil actions, there is result of misconduct,’ I grant him this. When he says: ‘I saw a person here who killed living beings … and held wrong view, and I see that on the dissolution of the body, after death, he has reappeared in a state of deprivation … even in hell,’ I also grant him this. But when he says: ‘On the dissolution of the body, after death, everyone who kills living beings … and holds wrong view reappears in a state of deprivation … even in hell,’ I do not grant him this. And when he says: ‘Those who know thus know rightly; those who think otherwise are mistaken,’ I also do not grant him this. And when he obstinately adheres to what he himself has known, seen, and discovered, insisting: ‘Only this is true, anything else is wrong,’ I also do not grant him this. Why is that? Because, Ananda, the Tathagata’s knowledge of the great exposition of action is otherwise.

Ở đây, này Ananda, Sa-môn hay Bà-la-môn nào nói như sau: “Chắc chắn có ác nghiệp, có quả báo ác nghiệp”. Như vậy, Ta chấp nhận cho vị ấy. Vị ấy nói như sau: “Tôi đã thấy ở đây có người sát sanh, lấy của không cho… có tà kiến, sau khi thân hoại mạng chung, tôi thấy người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục”. Như vậy, Ta cũng chấp nhận cho vị ấy. Còn nếu vị ấy nói như sau: “Chắc chắn tất cả những ai sát sanh, lấy của không cho… ; sau khi thân hoại mạng chung, họ đều sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục”, như vậy, Ta không chấp nhận cho vị ấy. Và nếu vị ấy nói như sau: “Những ai biết như vậy, những vị ấy biết một cách chân chánh. Những ai biết khác như vậy, trí của họ thuộc tà kiến”; như vậy, Ta không chấp nhận cho vị ấy. Điều vị ấy tự mình biết, tự mình thấy, tự mình hiểu rõ, ở đây vị ấy nắm giữ, chấp trước và tuyên bố: “Chỉ như vậy mới chơn thực, ngoài ra đều là hư vọng”. Như vậy, Ta cũng không chấp nhận cho vị ấy. Vì cớ sao? Khác như vậy, này Ananda, là trí của Như Lai về Đại phân biệt về nghiệp.

 

  1. “Therein, Ananda, when a recluse or Brahmin says:

‘Indeed, there are no evil actions, there is no result of misconduct,’ I do not grant him this. When he says: ‘I saw a person here who killed living beings … and held wrong view, and I see that on the dissolution of the body, after death, he has reappeared in a happy destination, even in the heavenly world,’ I grant him this. But when he says: “On the dissolution of the body, after death, everyone who kills living beings … and holds wrong view reappears in a happy destination, even in the heavenly world,’ [213] I do not grant him this. And when he says: ‘Those who know thus know rightly; those who think otherwise are mistaken,’ I also do not grant him this. And when he obstinately adheres to what he himself has known, seen, and discovered, insisting: ‘Only this is true, anything else is wrong,’ I also do not grant him this. Why is that? Because, Ananda, the Tathagata’s knowledge of the great exposition of action is otherwise.

Ở đây, này Ananda, Sa-môn hay Bà-la-môn nào nói như sau: “Chắc chắn không có ác nghiệp, không có quả báo ác hạnh”. Như vậy, Ta không chấp nhận cho vị ấy. Và vị ấy nói như sau: “Tôi đã thấy ở đây có người sát sanh, lấy của không cho… có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, tôi thấy người ấy sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này”. Như vậy, Ta chấp nhận cho vị ấy. Còn nếu vị ấy nói như sau: “Chắc chắn tất cả những ai sát sanh, lấy của không cho… tất cả sau khi thân hoại mạng chung, họ đều sanh vào thiện thú Thiên giới, cõi đời này”; như vậy, Ta không chấp nhận cho vị ấy. Và nếu vị ấy nói như sau: “Những ai biết như vậy, những vị ấy biết một cách chơn chánh. Những ai biết khác như vậy, trí của họ thuộc tà kiến”; như vậy, Ta không chấp nhận cho vị ấy. Điều vị ấy tự mình biết, tự mình thấy, tự mình hiểu rõ, ở đây, vị ấy nắm giữ, chấp trước và tuyên bố: “Chỉ như vậy mới chơn thực, ngoài ra đều là hư vọng”. Như vậy Ta cũng không chấp nhận cho vị ấy. Vì cớ sao? Khác như vậy, này Ananda, là trí của Như Lai về Đại phân biệt về nghiệp.

 

  1. “Therein, Ananda, when a recluse or Brahmin says: ‘Indeed, there are good actions, there is result of good conduct,’ I grant him this. And when he says: ‘I saw a person here who abstained from killing living beings … and held right view, and I see that on the dissolution of the body, after death, he has reappeared in a happy destination, even in the heavenly world,’ I also grant him this. But when he says: ‘On the dissolution of the body, after death, everyone who abstains from killing living beings … and holds right view reappears in a happy destination, even in the heavenly world,’ I do not grant him this. And when he says: ‘Those who know thus know rightly; those who think otherwise are mistaken,’ I also do not grant him this. And when he obstinately adheres to what he himself has known, seen, and discovered, insisting: ‘Only this is true, anything else is wrong,’ I also do not grant him this. Why is that? Because, Ananda, the Tathagata’s knowledge of the great exposition of action is otherwise.

Ở đây, này Ananda, Sa-môn hay Bà-la-môn nào nói như sau: “Chắc chắn có thiện nghiệp, có quả báo thiện hạnh”. Như vậy Ta chấp nhận cho vị ấy. Và vị ấy nói như sau: “Tôi đã thấy ở đây có người từụ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho… có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, tôi thấy người ấy sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này”. Như vậy, Ta cũng chấp nhận cho vị ấy. Còn nếu vị ấy nói như sau: “Chắc chắn tất cả những ai từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho… tất cả sau khi thân hoại mạng chung; họ đều sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này”; như vậy, Ta không chấp nhận cho vị ấy. Và nếu vị ấy nói như sau: “Những ai biết như vậy, những vị ấy biết một cách chân chánh. Những ai biết khác như vậy, trí của họ thuộc tà kiến”, như vậy, Ta cũng không chấp nhận cho vị ấy. Điều vị ấy tự mình biết, tự mình thấy, tự mình hiểu rõ, ở đây, vị ấy nắm giữ, chấp trước và tuyên bố: “Chỉ như vậy mới chơn thực, ngoài ra đều là hư vọng”. Như vậy, Ta cũng không chấp nhận cho vị ấy. Vì cớ sao? Khác như vậy, này Ananda, là trí của Như Lai về Đại phân biệt về nghiệp.

 

  1. “Therein, Ananda, when a recluse or Brahmin says: ‘Indeed, there are no good actions, there is no result of good conduct,’ I do not grant him this. When he says: ‘I saw a person here who abstained from killing living beings … and held right view, and I see that on the dissolution of the body, after death, he has reappeared in a state of deprivation … even in hell,’ I grant him this. But when he says: ‘On the dissolution of the body, after death, everyone who abstains from killing living beings … and holds right view reappears in a state of deprivation … even in hell,’ I do not grant him this. And when he says: [214] ‘Those who know thus know rightly; those who think otherwise are mistaken,’ I also do not grant him this. And when he obstinately adheres to what he himself has known, seen, and discovered, insisting: ‘Only this is true, anything else is wrong,’ I also do not grant him this. Why is that? Because, Ananda, the Tathagata’s knowledge of the great exposition of action is otherwise.

Ở đây, này Ananda, Sa-môn hay Bà-la-môn nào nói như sau: “Chắc chắn không có thiện nghiệp, không có quả báo thiện hạnh “. Như vậy, Ta không chấp nhận cho vị ấy. Và vị ấy nói như sau: “Tôi đã thấy ở đây có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho… có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, tôi thấy người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục”. Như vậy, Ta chấp nhận cho vị ấy. Còn nếu vị ấy nói như sau: “Chắc chắn những ai từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho… có chánh kiến, tất cả sau khi thân hoại mạng chung, họ đều sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục”; như vậy, Ta cũng không chấp nhận cho vị ấy. Và nếu vị ấy nói như sau: “Những ai biết như vậy, những vị ấy biết một cách chân chánh. Những ai biết khác như vậy, trí của họ thuộc tà kiến”; như vậy, Ta cũng không chấp nhận cho vị ấy. Điều vị ấy tự mình biết, tự mình thấy, tự mình hiểu rõ, ở đây vị ấy nắm giữ, chấp trước và tuyên bố: “Chỉ như vậy mới chơn thực, ngoài ra đều là hư vọng”. Như vậy, Ta cũng không chấp nhận cho vị ấy. Vì cớ sao? Khác như vậy, này Ananda, là trí của Như Lai về Đại phân biệt về nghiệp.

 

  1. “Therein, Ananda, as to the person here who kills living beings … and holds wrong view, and on the dissolution of the body, after death, reappears in a state of deprivation … even in hell: either earlier he did an evil action to be felt as painful, or later he did an evil action to be felt as painful, or at the time of death he acquired and undertook wrong view. Because of that, on the dissolution of the body, after death, he has reappeared in a state of deprivation … even in hell. And since he has here killed living beings … and held wrong view, he will experience the result of that either here or now, or in his next rebirth, or in some subsequent existence.

Ở đây, này Ananda, người nào sát sanh, lấy của không cho… có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục… Hoặc là một ác nghiệp đưa đến cảm giác khổ thọ do người ấy làm lúc trước, hay một ác nghiệp đưa đến cảm giác khổ thọ do người ấy làm về sau, hay trong khi mệnh chung, một tà kiến được người ấy chấp nhận và chấp chặt. Do vậy, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Và ai ở đây sát sanh, lấy của không cho… có tà kiến, người ấy phải lãnh thọ quả báo được khởi lên ngay hiện tại hay trong một đời khác.

 

  1. “Therein, Ananda, as to the person here who kills living beings … and holds wrong view, and on the dissolution of the body, after death, reappears in a happy destination, even in the heavenly world: either earlier he did a good action to be felt as pleasant, or later he did a good action to be felt as pleasant, or at the time of death he acquired and undertook right view. Because of that, on the dissolution of the body, after death, he has reappeared in a happy destination, even in the heavenly world. But since he has here killed living beings … and held wrong view, he will experience the result of that either here or now, or in his next rebirth, or in some subsequent existence.

Ở đây, này Ananda, người nào sát sanh, lấy của không cho… có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy bị sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này… Hoặc là một thiện nghiệp đưa đến cảm giác lạc thọ do người ấy làm lúc trước, hay một thiện nghiệp đưa đến cảm giác lạc thọ do người ấy làm về sau, hay trong khi mệnh chung, một chánh kiến được người ấy chấp nhận và chấp chặt. Do vậy sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Và ai ở đây sát sanh, lấy của không cho… có tà kiến, người ấy phải lãnh thọ quả báo được khởi lên ngay hiện tại hay trong một đời khác.

 

  1. “Therein, Ananda, as to the person here who abstains from killing living beings … and holds right view, and on the dissolution of the body, after death, reappears in a happy destination, even in the heavenly world: either earlier he did a good action to be felt as pleasant, or later he did a good action to be felt as pleasant, or at the time of death he acquired and undertook right view. Because of that, on the dissolution of the body, after death, he has reappeared in a happy destination, even in the heavenly world. And since he has here abstained from killing living beings [215] … and held right view, he will experience the result of that either here or now, or in his next rebirth, or in some subsequent existence.
  2. “Therein, Ananda, as to the person here who abstains from killing living beings … and holds right view, and on the dissolution of the body, after death, reappears in a state of deprivation ….even in hell: either earlier he did an evil action to be felt as painful, or later he did an evil action to be felt as painful, or at the time of death he acquired and undertook wrong view. Because of that, on the dissolution of the body, after death, he has reappeared in a state of deprivation … even in hell. But since he has here abstained from killing living beings … and held right view, he will experience the result of that either here or now, or in his next rebirth, or in some subsequent existence.

Ở đây, này Ananda, người nào từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho… có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này… Hoặc là một thiện nghiệp đưa đến cảm giác lạc thọ do người ấy làm từ trước, hay một thiện nghiệp đưa đến cảm giác lạc thọ do người ấy làm về sau, hay trong khi mệnh chung, một chánh kiến được người ấy chấp nhận và chấp chặt. Do vậy, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Và ai ở đây từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho… có chánh kiến, người ấy phải lãnh thọ quả báo được khởi lên ngay hiện tại, hay trong một đời khác.

  1. “Thus, Ananda, there is action that is incapable [of good result] and appears incapable; there is action that is incapable [of good result] and appears capable; there is action that is capable [of good result] and appears capable; and there is action that is capable [of good result] and appears incapable.”

That is what the Blessed One said. The venerable Ananda was satisfied and delighted in the Blessed One’s words.

Như vậy, này Ananda, có nghiệp vô hữu tợ vô hữu, có nghiệp vô hữu tợ hữu, có nghiệp hữu tợ hữu, có nghiệp hữu tợ vô hữu.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn giả Ananda hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.

 

Sources:

Tài liệu tham khảo:

  1. http://thuvienhoasen.org/p15a1040/136-dai-kinh-nghiep-phan-biet-mahakammavibhanga
  2. http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/mn/
  3. http://lirs.ru/lib/sutra/The_Middle_Length_Discourses(Majjhima_Nikaya), Nanamoli, Bodhi, 1995.pdf
  4. https://theravada.vn/136-kinh-dai-phan-biet-nghiep-mahakammavibhanga/