131. Chương 131. Kinh Nhất dạ hiền giả – MN 131. One Fortunate Attachment – Song ngữ

Majjhima Nikaya – Middle-length Discourses of the Buddha

Trung Bộ Kinh

Anh ngữ: Bhikkhu Ñāṇamoli      

Việt ngữ: Hòa thượng Thích Minh Châu

Compile: Lotus group

Part III – Majjhima Nikaya – Middle Length Discourses – Trung Bộ Kinh

Chương 131. Kinh Nhất dạ hiền giả – MN 131. One Fortunate Attachment – (Bhaddekaratta sutta).

 

  1. Thus have I heard.

Như vầy tôi nghe.

 

On one occasion the Blessed One was living at Savatthi in Jeta’s Grove, Anathapindika’s Park. There he addressed the bhikkhus thus: “Bhikkhus.” — “Venerable sir,” they replied. The Blessed One said this:

Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà lâm), tại tịnh xá ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đấy Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: “Này các Tỷ-kheo”. –“Thưa vâng, bạch Thế Tôn”. Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:

 

  1. “Bhikkhus, I shall teach you the summary and exposition of ‘One Who Has One Fortunate Attachment.’ Listen and attend closely to what I shall say.”

— “Yes, venerable sir,” the bhikkhus replied. The Blessed One said this:

— Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết giảng cho các Ông: ‘Nhứt dạ Hiền giả’ (Bhaddekaratta), tổng thuyết và biệt thuyết. Hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ thuyết giảng.

— Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn giảng như sau:

 

  1. “Let not a person revive the past

Or on the future build his hopes;

For the past has been left behind

And the future has not been reached.

Instead with insight let him see

Each presently arisen state;

Let him know that and be sure of it,

Invincibly, unshakeably.

Today the effort must be made;

Tomorrow Death may come, who knows?

No bargain with Mortality

Can keep him and his hordes away,

But one who dwells thus ardently,

Relentlessly, by day, by night – It is he, the

Peaceful Sage has said,

Who has one fortunate attachment. [188]

    Quá khứ không truy tìm

    Tương lai không ước vọng.

    Quá khứ đã đoạn tận,

    Tương lai lại chưa đến,

    Chỉ có pháp hiện tại

    Tuệ quán chính ở đây.

    Không động, không rung chuyển

    Biết vậy, nên tu tập,

    Hôm nay nhiệt tâm làm,

    Ai biết chết ngày mai?

    Không ai điều đình được,

    Với đại quân thần chết,

    Trú như vậy nhiệt tâm,

    Đêm ngày không mệt mỏi,

    Xứng gọi Nhứt dạ Hiền,

    Bậc an tịnh, trầm lặng.

 

  1. “How, bhikkhus, does one revive the past? Thinking, ‘I had such material form in the past,’ one finds delight in that. Thinking, ‘I had such feeling in the past, ‘I had such perception in the past,’…’I had such formations in the past,’…’I had such consciousness in the past,’ one finds delight in that. That is how one revives the past.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là truy tìm quá khứ? Vị ấy nghĩ: “Như vậy là sắc của tôi trong quá khứ”, và truy tìm sự hân hoan trong ấy; “Như vậy là thọ của tôi trong quá khứ”, và truy tìm sự hân hoan trong ấy; “Như vậy là tưởng của tôi trong quá khứ”, và truy tìm sự hân hoan trong ấy; “Như vậy là hành của tôi trong quá khứ”, và truy tìm sự hân hoan trong ấy, “Như vậy, là thức của tôi trong quá khứ”, và truy tìm sự hân hoan trong ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là truy tìm quá khứ.

 

  1. “And how, bhikkhus, does one not revive the past? Thinking, ‘I had such material form in the past,’ one does not find delight in that. Thinking, ‘I had such feeling in the past,’ … ‘l had such perception in the past,’ … ‘I had such formations in the past,’ … ‘I had such consciousness in the past,’ one does not find delight in that. That is how one does not revive the past.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là không truy tìm quá khứ? Vị ấy nghĩ: “Như vậy là sắc của tôi trong quá khứ”, và không truy tìm sự hân hoan trong ấy; “Như vậy là thọ của tôi trong quá khứ”, và không truy tìm sự hân hoan trong ấy; “Như vậy là tưởng của tôi… Như vậy là hành của tôi… Như vậy là thức của tôi trong quá khứ”; và không truy tìm sự hân hoan trong ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là không truy tìm quá khứ.

 

  1. “And how, bhikkhus, does one build up hope upon the future? Thinking, ‘I may have such material form in the future, one finds delight in that. Thinking, ‘I may have such feeling in the future,’ … ‘I may have such perception in the future,’ … ‘I may have such formations in the future,’ … ‘I may have such consciousness in the future,’ one finds delight in that. That is how one builds up hope upon the future.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào ước vọng tương lai? Vị ấy nghĩ: “Mong rằng như vậy sẽ là sắc của tôi trong tương lai”, và truy tìm sự hân hoan trong ấy; “Mong rằng như vậy sẽ là thọ của tôi trong tương lai”, và truy tìm sự hân hoan trong ấy; “Mong rằng như vậy là tưởng của tôi… là hành của tôi… Như vậy là thức của tôi trong tương lai”, và truy tìm sự hân hoan trong ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là ước vọng trong tương lai.

 

  1. “And how, bhikkhus, does one not build up hope upon the future? Thinking, ‘I may have such material form in the future,’ one does not find delight in that. Thinking, ‘I may have such feeling in the future,’…’I may have such perception in the future,’ … ‘I may have such formations in the future,’…’I may have such consciousness in the future,’ one does not find delight in that. That is how one does not build up hope upon the future.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là không ước vọng trong tương lai? Vị ấy nghĩ: “Mong rằng như vậy sẽ là sắc của tôi trong tương lai”, và không truy tìm hân hoan trong ấy; “Mong rằng như vậy sẽ là thọ của tôi trong tương lai”, và không truy tìm hân hoan trong ấy; “Mong rằng như vậy sẽ là tưởng… sẽ là hành… sẽ là thức của tôi trong tương lai, “và không truy tìm hân hoan trong ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là ước vọng trong tương lai.

 

  1. “And how, bhikkhus, is one vanquished in regard to presently arisen states? Here, bhikkhus, an untaught ordinary person, who has no regard for noble ones and is unskilled and undisciplined in their Dhamma, who has no regard for true men and is unskilled and undisciplined in their Dhamma, regards material form as self, or self as possessed of material form, or material form as in self, or self as in material form. He regards feeling as self … perception as self … formations as self [189] … consciousness as self, or self as possessed of consciousness, or consciousness as in self, or self as in consciousness. That is how one is vanquished in regard to presently arisen states.

Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có kẻ vô văn phàm phu không đi đến các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh; không đi đến các bậc Chân nhân, không thuần thục pháp các bậc Chân nhân, không tu tập pháp các bậc Chân nhân; quán sắc là tự ngã, hay quán tự ngã là có sắc, hay quán sắc là trong tự ngã, hay quán tự ngã là trong sắc, hay vị ấy quán thọ là tự ngã, hay quán tự ngã là có thọ; hay quán thọ là trong tự ngã, hay quán tự ngã là trong thọ, hay vị ấy quán tưởng là trong tự ngã, hay quán tự ngã là có tưởng, hay vị ấy quán tưởng là tự ngã, hay quán tự ngã là có tưởng, hay vị ấy quán hành là tự ngã, hay vị ấy quán tự ngã là có hành, hay vị ấy quán hành là trong tự ngã, hay vị ấy quán tự ngã là trong hành; hay vị ấy quán thức là tự ngã, hay quán tự ngã là có thức, hay quán thức là trong tự ngã, hay quán tự ngã là trong thức. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại.

 

  1. “And how, bhikkhus, is one invincible in regard to presently arisen states? Here, bhikkhus, a well-taught noble disciple, who has regard for noble ones and is skilled and disciplined in their Dhamma, who has regard for true men and is skilled and disciplined in their Dhamma, does not regard material form as self, or self as possessed of material form, or material form as in self, or self as in material form. He does not regard feeling as self … perception as self … formations as self … consciousness as self, or self as possessed of consciousness, or consciousness as in self, or self as in consciousness. That is how one is invincible in regard to presently arisen states.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là không bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có vị Đa văn Thánh đệ tử đi đến các bậc Thánh, thuần thục pháp các bậc Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh, đi đến các bậc Chân nhân, thuần thục pháp các bậc Chân nhân, tu tập pháp các bậc Chân nhân. Vị này không quán sắc là tự ngã, không quán tự ngã là có sắc, không quán sắc là trong tự ngã, không quán tự ngã trong sắc; không quán thọ… không quán tưởng… không quán hành… không quán thức là tự ngã, không quán tự ngã là có thức, không quán thức trong tự ngã, không quán tự ngã trong thức. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là không bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại.

 

  1. “Let not a person revive the past …

Who has one fortunate attachment.

    Quá khứ không truy tìm

    Tương lai không ước vọng.

    Quá khứ đã đoạn tận,

    Tương lai lại chưa đến,

    Chỉ có pháp hiện tại

    Tuệ quán chính ở đây.

    Không động, không rung chuyển

    Biết vậy, nên tu tập,

    Hôm nay nhiệt tâm làm,

    Ai biết chết ngày mai?

    Không ai điều đình được,

    Với đại quân thần chết,

    Trú như vậy nhiệt tâm,

    Đêm ngày không mệt mỏi,

    Xứng gọi Nhứt dạ Hiền,

    Bậc an tịnh, trầm lặng.

 

— Và thế nào, này Ananda, thế nào là truy tìm quá khứ? Vị ấy nghĩ: “Như vậy là sắc của tôi trong quá khứ”, và truy tìm sự hân hoan trong ấy; “Như vậy là thọ của tôi trong quá khứ”, và truy tìm sự hân hoan trong ấy; “Như vậy là tưởng của tôi trong quá khứ”, và truy tìm sự hân hoan trong ấy; “Như vậy là hành của tôi trong quá khứ”, và truy tìm sự hân hoan trong ấy, “Như vậy, là thức của tôi trong quá khứ”, và truy tìm sự hân hoan trong ấy. Như vậy, này Ananda, là truy tìm quá khứ.

 

Và này Ananda, thế nào là không truy tìm quá khứ? Vị ấy nghĩ: “Như vậy là sắc của tôi trong quá khứ”, và không truy tìm sự hân hoan trong ấy; “Như vậy là thọ của tôi trong quá khứ”, và không truy tìm sự hân hoan trong ấy; “Như vậy là tưởng của tôi… Như vậy là hành của tôi… Như vậy là thức của tôi trong quá khứ”; và không truy tìm sự hân hoan trong ấy. Như vậy, này Ananda, là không truy tìm quá khứ.

 

Và này Ananda, thế nào ước vọng tương lai? Vị ấy nghĩ: “Mong rằng như vậy sẽ là sắc của tôi trong tương lai”, và truy tìm sự hân hoan trong ấy; “Mong rằng như vậy sẽ là thọ của tôi trong tương lai”, và truy tìm sự hân hoan trong ấy; “Mong rằng như vậy là tưởng của tôi… là hành của tôi… Như vậy là thức của tôi trong tương lai”, và truy tìm sự hân hoan trong ấy. Như vậy, này Ananda, là ước vọng trong tương lai.

 

Và này Ananda, thế nào là không ước vọng trong tương lai? Vị ấy nghĩ: “Mong rằng như vậy sẽ là sắc của tôi trong tương lai”, và không truy tìm hân hoan trong ấy; “Mong rằng như vậy sẽ là thọ của tôi trong tương lai”, và không truy tìm hân hoan trong ấy; “Mong rằng như vậy sẽ là tưởng… sẽ là hành… sẽ là thức của tôi trong tương lai, “và không truy tìm hân hoan trong ấy. Như vậy, này Ananda, là ước vọng trong tương lai.

 

Và này Ananda, như thế nào là bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại? Ở đây, này Ananda, có kẻ vô văn phàm phu không đi đến các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh; không đi đến các bậc Chân nhân, không thuần thục pháp các bậc Chân nhân, không tu tập pháp các bậc Chân nhân; quán sắc là tự ngã, hay quán tự ngã là có sắc, hay quán sắc là trong tự ngã, hay quán tự ngã là trong sắc, hay vị ấy quán thọ là tự ngã, hay quán tự ngã là có thọ; hay quán thọ là trong tự ngã, hay quán tự ngã là trong thọ, hay vị ấy quán tưởng là trong tự ngã, hay quán tự ngã là có tưởng, hay vị ấy quán tưởng là tự ngã, hay quán tự ngã là có tưởng, hay vị ấy quán hành là tự ngã, hay vị ấy quán tự ngã là có hành, hay vị ấy quán hành là trong tự ngã, hay vị ấy quán tự ngã là trong hành; hay vị ấy quán thức là tự ngã, hay quán tự ngã là có thức, hay quán thức là trong tự ngã, hay quán tự ngã là trong thức. Như vậy, này Ananda, là bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại.

 

Và này Ananda, thế nào là không bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại? Ở đây, này Ananda, có vị Đa văn Thánh đệ tử đi đến các bậc Thánh, thuần thục pháp các bậc Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh, đi đến các bậc Chân nhân, thuần thục pháp các bậc Chân nhân, tu tập pháp các bậc Chân nhân. Vị này không quán sắc là tự ngã, không quán tự ngã là có sắc, không quán sắc là trong tự ngã, không quán tự ngã trong sắc; không quán thọ… không quán tưởng… không quán hành… không quán thức là tự ngã, không quán tự ngã là có thức, không quán thức trong tự ngã, không quán tự ngã trong thức. Như vậy, này Ananda, là không bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại.

 

    Quá khứ không truy tìm

    Tương lai không ước vọng.

    Quá khứ đã đoạn tận,

    Tương lai lại chưa đến,

    Chỉ có pháp hiện tại

    Tuệ quán chính ở đây.

    Không động, không rung chuyển

    Biết vậy, nên tu tập,

    Hôm nay nhiệt tâm làm,

    Ai biết chết ngày mai?

    Không ai điều đình được,

    Với đại quân thần chết,

    Trú như vậy nhiệt tâm,

    Đêm ngày không mệt mỏi,

    Xứng gọi Nhứt dạ Hiền,

    Bậc an tịnh, trầm lặng.

 

  1. “So it was with reference to this that it was said: ‘Bhikkhus, I shall teach you the summary and exposition of “One Who Has One Fortunate Attachment.”

Khi ta nói: “Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các Ông: ‘Nhứt dạ Hiền giả’, tổng thuyết và biệt thuyết”, chính duyên ở đây mà nói vậy.

 

That is what the Blessed One said. The bhikkhus were satisfied and delighted in the Blessed One’s words.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời dạy của Thế Tôn.

 

 

Sources:

Tài liệu tham khảo:

  1. http://thuvienhoasen.org/p15a1035/131-kinh-nhat-da-hien-gia-bhaddekaratta-sutta
  2. http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/mn/
  3. http://lirs.ru/lib/sutra/The_Middle_Length_Discourses(Majjhima_Nikaya),Nanamoli, Bodhi, 1995.pdf
  4. https://theravada.vn/131-kinh-nhat-da-hien-gia-bhaddekaratta-sutta/