111. Chương 111. Kinh Bất đoạn – MN 111. One by One As They Occurred – Song ngữ

Majjhima Nikaya – Middle-length Discourses of the Buddha

Trung Bộ Kinh

Anh ngữ: Bhikkhu Ñāṇamoli      

Việt ngữ: Hòa thượng Thích Minh Châu

Compile: Lotus group

Part III – Majjhima Nikaya – Middle Length Discourses – Trung Bộ Kinh

Chương 111. Kinh Bất đoạn – MN 111. One by One As They Occurred – (Anupada sutta)

 

  1. Thus have I heard.

Như vầy tôi nghe.

 

On one occasion the Blessed One was living at Savatthi in Jeta’s Grove, Anathapindika’s Park. There he addressed the bhikkhus thus: “Bhikkhus.” – “Venerable, sir,” they replied. The Blessed One said this:

Một thời Thế Tôn trú ở Savatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà-lâm), tinh xá ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: “Này các Tỷ-kheo” –“Thưa vâng, bạch Thế Tôn”. Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau: 

 

  1. “Bhikkhus, Sariputta is wise; Sariputta has great wisdom; Sariputta has wide wisdom; Sariputta has joyous wisdom; Sariputta has quick wisdom; Sariputta has keen wisdom; Sariputta has penetrative wisdom. During half a month, bhikkhus, Sariputta had insight into states one by one as they occurred. Now Sariputta’s insight into states one by one as they occurred was this:

— Này các Tỷ-kheo, Sariputta (Xá-lợi-phất) là bậc Hiền trí; này các Tỷ-kheo, Sariputta là bậc Đại tuệ; này các Tỷ-kheo, Sariputta là bậc Quảng tuệ; này các Tỷ-kheo, Sariputta là bậc Hỷ tuệ (Hasupanna); này các Tỷ-kheo, Sariputta là bậc Tiệp tuệ (javanapanna); này các Tỷ-kheo, Sariputta là bậc Lợi tuệ (tikkhapanna); này các Tỷ-kheo, Sariputta là bậc Quyết trạch tuệ (nibbedhikapanna). Này các Tỷ-kheo, cho đến nửa tháng, Sariputta quán bất đoạn pháp quán. Này các Tỷ-kheo, đây là do bất đoạn pháp quán của Sariputta:

 

  1. “Here, bhikkhus, quite secluded from sensual pleasures, secluded from unwholesome states, Sariputta entered upon and abided in the first jhana, which is accompanied by applied and sustained thought, with rapture and pleasure born of seclusion.

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Sariputta ly dục, ly bất thiện pháp, chứng đạt và an trú sơ Thiền, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. 

 

  1. “And the states in the first jhana – the applied thought, the sustained thought, the rapture, the pleasure, and the unification of mind; the contact, feeling, perception, volition, and mind; the zeal, decision, energy, mindfulness, equanimity, and attention – these states were defined by him one by one as they occurred; known to him those states arose, known they were present, known they disappeared. He understood thus: ‘So indeed, these states, not having been, come into being; having been, they vanish.’ Regarding those states, he abided unattracted, unrepelled, independent, detached, and free, dissociated, with a mind rid of barriers. He understood: ‘There is an escape beyond,’ and with the cultivation of that [attainment], he confirmed that there is.

Và những pháp thuộc về Thiền thứ nhất như tầm, tứ, hỷ, lạc, nhứt tâm, và xúc, thọ, tưởng, tư, tâm, dục, thắng giải, tinh tấn, niệm, xả, tác ý; các pháp ấy được an trú bất đoạn. Các pháp ấy được Sariputta biết đến khi chúng khởi lên, được Sariputta biết đến khi an trú, được Sariputta biết đến khi đoạn diệt. Sariputta biết rõ như sau: “Như vậy các pháp ấy trước không có nơi ta, nay có hiện hữu, sau khi hiện hữu, chúng đoạn diệt”. Sariputta đối với những pháp ấy, cảm thấy không luyến ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc, giải thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không có hạn chế. Sariputta biết: “Còn có sự giải thoát hơn thế nữa. Đối với Sariputta, còn có nhiều việc phải làm hơn nữa”.

 

  1. “Again, bhikkhus, with the stilling of applied and sustained thought, Sariputta entered and abided in [26] the second jhana, which has self-confidence and singleness of mind without applied and sustained thought, with rapture and pleasure born of concentration.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Sariputta diệt tầm và tứ, chứng đạt và an trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tỉnh nhứt tâm.

  1. “And the states in the second jhana – the self-confidence, the rapture, the pleasure, and the unification of mind; the contact, feeling, perception, volition, and mind; the zeal, decision, energy, mindfulness, equanimity, and attention – these states were defined by him one by one as they occurred; known to him those states arose, known they were present, known they disappeared. He understood thus: … and with the cultivation of that [attainment], he confirmed that there is.

Và những pháp thuộc về Thiền thứ hai như nội tỉnh, hỷ, lạc, nhứt tâm, và xúc, thọ, tưởng, tư, tâm, dục, thắng giải, tinh tấn, niệm, xả, tác ý, những pháp ấy được an trú bất đoạn. Các pháp ấy được Sariputta biết đến khi chúng khởi lên, được Sariputta biết đến khi chúng an trú, được Sariputta biết đến khi chúng đoạn diệt. Sariputta biết rõ như sau: “Như vậy các pháp ấy trước không có nơi ta, nay có hiện hữu, sau khi hiện hữu, chúng đoạn diệt”. Sariputta đối với những pháp ấy, không luyến ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc, giải thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không có hạn chế. Sariputta biết: “Còn có sự giải thoát hơn thế nữa. Đối với Sariputta, còn có nhiều việc phải làm hơn thế nữa”.

 

  1. “Again, bhikkhus, with the fading away as well of rapture, Sariputta abided in equanimity, and mindful and fully aware, still feeling pleasure with the body, he entered upon and abided in the third jhana, on account of which noble ones announce: ‘He has a pleasant abiding who has equanimity and is mindful.’

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Sariputta ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và an trú Thiền thứ ba. 

 

  1. “And the states in the third jhana – the equanimity, the pleasure, the mindfulness, the full awareness, and the unification of mind; the contact, feeling, perception, volition, and mind; the zeal, decision, energy, mindfulness, equanimity, and attention – these states were defined by him one by one as they occurred; known to him those states arose, known they were present, known they disappeared. He understood thus: … and with the cultivation of that [attainment], he confirmed that there is.

Và những pháp thuộc về Thiền thứ ba, như xả, lạc, niệm, tỉnh giác, nhứt tâm, và xúc, thọ, tưởng, tư, tâm, dục, thắng giải, tinh tấn, xả, tác ý; những pháp ấy được Sariputta an trú bất đoạn, các pháp ấy được Sariputta biết đến khi chúng khởi lên, được Sariputta biết đến khi chúng an trú, được Sariputta biết đến khi chúng đoạn diệt. Sariputta đối với những pháp ấy, không luyến ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc, giải thoát không hệ lụy, an trú với tâm không có hạn chế. Sariputta biết: “Còn có sự giải thoát hơn thế nữa. Đối với Sariputta, còn có nhiều việc phải làm hơn thế nữa”.

 

  1. “Again, bhikkhus, with the abandoning of pleasure and pain, and with the previous disappearance of joy and grief, Sariputta entered upon and abided in the fourth jhana, which has neither-pain-nor-pleasure and purity of mindfulness due to equanimity.

Lại nữa này các Tỷ-kheo, Sariputta xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm, thanh tịnh. 

 

  1. “And the states in the fourth jhana – the equanimity, the neither-painful-nor-pleasant feeling, the mental unconcern due to tranquillity, the purity of mindfulness, and the unification of mind; the contact, feeling, perception, volition, and mind; the zeal, decision, energy, mindfulness, equanimity, and attention – these states were defined by him one by one as they occurred; known to him those states arose, known they were present, [27] known they disappeared. He understood thus: … and with the cultivation of that [attainment], he confirmed that there is.

Và những pháp thuộc về Thiền thứ tư, như xả, bất khổ bất lạc thọ, thọ (passivedana), vô quán niệm tâm (Cetaso anabhogo), thanh tịnh nhờ niệm, nhứt tâm, và xúc, thọ, tưởng, tư, tâm, dục, thắng giải, tinh tấn, niệm, xả, tác ý; những pháp ấy được Sariputta an trú bất đoạn, các pháp ấy được Sariputta biết đến khi chúng khởi lên, được Sariputta biết đến khi chúng an trú, được Sariputta biết đến khi chúng đoạn diệt. Sariputta đối với những pháp ấy, không luyến ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc, giải thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không có hạn chế. Sariputta biết: “Còn có sự giải thoát hơn thế nữa. Đối với Sariputta, còn có nhiều việc phải làm hơn thế nữa”.

 

  1. “Again, bhikkhus, with the complete surmounting of perceptions of form, with the disappearance of perceptions of sensory impact, with non-attention to perceptions of diversity, aware that ‘space is infinite,’ Sariputta entered upon and abided in the base of infinite space.

Lại nữa này các Tỷ-kheo, Sariputta vượt lên hoàn toàn sắc tưởng, diệt trừ mọi chướng ngại tưởng, không tác ý đối với dị tưởng, nghĩ rằng: “Hư không là vô biên”, chứng và trú Không vô biên xứ. 

 

  1. “And the states in the base of infinite space – the perception of the base of infinite space and the unification of mind; the contact, feeling, perception, volition, and mind; the zeal, decision, energy, mindfulness, equanimity, and attention – these states were defined by him one by one as they occurred; known to him those states arose, known they were present, known they disappeared. He understood thus: … and with the cultivation of that [attainment], he confirmed that there is.

Và những pháp thuộc về Không vô biên xứ như hư không, vô biên xứ tưởng, nhứt tâm, và xúc, thọ, tưởng, tư, tâm, dục, thắng giải, tinh tấn, niệm, xả, tác ý; những pháp ấy được Sariputta an trú bất đoạn, các pháp ấy được Sariputta biết đến khi chúng khởi lên, được Sariputta biết đến khi chúng an trú, được Sariputta biết đến khi chúng đoạn diệt. Sariputta đối với những pháp ấy, không luyến ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc, giải thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không có hạn chế. Sariputta biết: “Còn có sự giải thoát hơn thế nữa. Đối với Sariputta, còn có nhiều việc phải làm hơn thế nữa”.

 

  1. “Again, bhikkhus, by completely surmounting the base of infinite space, aware that ‘consciousness is infinite,’ Sariputta entered upon and abided in the base of infinite consciousness.

Lại nữa này các Tỷ-kheo, Sariputta vượt lên hoàn toàn Không vô biên xứ, nghĩ rằng: “Thức là vô biên”, chứng và trú Thức vô biên xứ. 

  

  1. “And the states in the base of infinite consciousness – the perception of the base of infinite consciousness and the unification of mind; the contact, feeling, perception, volition, and mind; the zeal, decision, energy, mindfulness, equanimity, and attention – these states were defined by him one by one as they occurred; known to him those states arose, known they were present, known they disappeared. He understood thus: … and with the cultivation of that [attainment], he confirmed that there is. [28]

Và những pháp thuộc về Thức vô biên xứ như Thức vô biên xứ tưởng, nhất tâm, và xúc, thọ, tưởng, tư, tâm, dục, thắng giải, tinh tấn, niệm, xả, tác ý; những pháp ấy được Sariputta an trú bất đoạn; các pháp ấy được Sariputta biết đến khi chúng khởi lên, được Sariputta biết đến khi chúng đoạn diệt. Sariputta đối với những pháp ấy không luyến ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc, giải thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không có hạn chế. Sariputta biết: “Còn có sự giải thoát hơn thế nữa. Đối với Sariputta, còn có nhiều việc phải làm hơn thế nữa”.

 

  1. “Again, bhikkhus, by completely surmounting the base of infinite consciousness, aware that ‘there is nothing,’ Sariputta entered upon and abided in the base of nothingness.

Lại nữa này các Tỷ-kheo, Sariputta vượt lên hoàn toàn Thức vô biên xứ, nghĩ rằng: “Không có vật gì”, chứng và trú Vô sở hữu xứ. 

 

  1. “And the states in the base of nothingness – the perception of the base of nothingness and the unification of mind; the contact, feeling, perception, volition, and mind; the zeal, decision, energy, mindfulness, equanimity, and attention – these states were defined by him one by one as they occurred; known to him those states arose, known they were present, known they disappeared. He understood thus: … and with the cultivation of that [attainment], he confirmed that there is.

Và những pháp thuộc về Vô sở hữu xứ, như Vô sở hữu xứ tưởng, nhứt tâm, và xúc, thọ, tưởng, tư, tâm, dục, thắng giải, tinh tấn, niệm, xả, tác ý; những pháp ấy được Sariputta an trú bất đoạn; các pháp ấy được Sariputta biết đến khi chúng khởi lên, được Sariputta biết đến khi chúng an trú, được Sariputta biết đến khi chúng đoạn diệt. Sariputta đối với những pháp ấy không luyến ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc, giải thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không có hạn chế. Sariputta biết: “Còn có sự giải thoát hơn thế nữa. Đối với Sariputta, còn có nhiều việc phải làm hơn thế nữa”.

 

  1. “Again, bhikkhus, by completely surmounting the base of nothingness, Sariputta entered upon and abided in the base of neither-perception-nor-non-perception.

Lại nữa này các Tỷ-kheo, Sariputta vượt lên hoàn toàn Vô sở hữu xứ, chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ. 

 

  1. “He emerged mindful from that attainment. Having done so, he contemplated the past states, which had ceased and changed, thus: ‘So indeed, these states, not having been, come into being; having been, they vanish.’ Regarding those states, he abided unattracted, unrepelled, independent, detached, free, dissociated, with a mind rid of barriers. He understood: ‘There is an escape beyond,’ and with the cultivation of that [attainment], he confirmed that there is.

Với chánh niệm, Sariputta xuất khỏi định ấy. Sau khi với chánh niệm xuất khỏi định ấy, Sariputta thấy các pháp ấy thuộc về quá khứ, bị đoạn diệt, bị biến hoại: “Như vậy các pháp ấy trước không có nơi ta, nay có hiện hữu, sau khi hiện hữu chúng đoạn diệt”. Sariputta đối với những pháp ấy cảm thấy không luyến ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc, giải thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không hạn chế. Sariputta biết: “Còn có sự giải thoát hơn thế nữa. Đối với Sariputta, còn có nhiều việc phải làm hơn thế nữa”.

 

  1. “Again, bhikkhus, by completely surmounting the base of neither-perception-nor-non-perception, Sariputta entered upon and abided in the cessation of perception and feeling. And his taints were destroyed by his seeing with wisdom.

Lại nữa này các Tỷ-kheo, Sariputta vượt khỏi hoàn toàn Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng và an trú Diệt thọ tưởng (định). Sau khi thấy với trí tuệ, các lậu hoặc được đoạn tận. 

 

  1. “He emerged mindful from that attainment. Having done so, he recalled the past states, which had ceased and changed, thus: ‘So indeed, these states, not having been, come into being; having been, they vanish.’ Regarding those states, he abided unattracted, unrepelled, independent, detached, free, dissociated, with a mind rid of barriers. He understood: ‘There is no escape beyond,’ and with the cultivation of that [attainment], he confirmed that there is not.

Với chánh niệm, Sariputta xuất khỏi định ấy. Sau khi với chánh niệm xuất khỏi định ấy, Sariputta thấy các pháp ấy thuộc về quá khứ, bị đoạn diệt, bị biến hoại: “Như vậy các pháp ấy, trước không có nơi ta, sau có hiện hữu, sau khi hiện hữu, chúng đoạn diệt”. Sariputta đối với các pháp ấy cảm thấy không luyến ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc, giải thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không hạn chế. Sariputta biết: “Không có sự giải thoát nào vô thượng hơn thế nữa. Đối với Sariputta, không có việc phải làm nhiều hơn thế nữa”.

 

  1. “Bhikkhus, rightly speaking, were it to be said of anyone: ‘He has attained mastery and perfection in noble virtue, [29] attained mastery and perfection in noble concentration, attained mastery and perfection in noble wisdom, attained mastery and perfection in noble deliverance,’ it is of Sariputta indeed that rightly speaking this should be said.

Này các Tỷ-kheo, nếu nói một cách chơn chánh, một người có thể nói về người ấy như sau: “Người này được tự tại, được cứu cánh trong Thánh giới, được tự tại, được cứu cánh trong Thánh định, được tự tại, được cứu cánh trong Thánh tuệ, được tự tại, được cứu cánh trong Thánh giải thoát. Nói một cách chơn chánh về Sariputta, người ấy có thể nói như sau: “Sariputta được tự tại, được cứu cánh trong Thánh giới, được tự tại, được cứu cánh trong Thánh định, được tự tại, được cứu cánh trong Thánh tuệ, được tự tại, được cứu cánh trong Thánh giải thoát”.

 

  1. “Bhikkhus, rightly speaking, were it to be said of anyone: ‘He is the son of the Blessed One, born of his breast, born of his mouth, born of the Dhamma, created by the Dhamma, an heir in the Dhamma, not an heir in material things,’ it is of Sariputta indeed that rightly speaking this should be said.

Này các Tỷ-kheo, nếu nói một cách chơn chánh, một người có thể nói về người ấy như sau: “Người này là con chánh tông của Thế Tôn, sanh ra từ miệng, sanh ra từ Pháp, do Pháp hóa thành, thừa tự Chánh pháp, không thừa tự vật chất”. Nói một cách chơn chánh về Sariputta, người ấy có thể nói như sau: “(Sariputta) là con chánh tông của Thế Tôn, sanh ra từ miệng, sanh ra từ Pháp, do Pháp hóa thành, thừa tự Chánh pháp, không thừa tự vật chất”.

 

  1. “Bhikkhus, the matchless Wheel of the Dhamma set rolling by the Tathagata is kept rolling rightly by Sariputta.”

That is what the Blessed One said. The bhikkhus were satisfied and delighted in the Blessed One’s words.

Sariputta, này các Tỷ-kheo, chơn chánh chuyển Pháp luân vô thượng đã được Như Lai chuyển vận.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các vị Tỷ-kheo hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.

 

 

Sources:

Tài liệu tham khảo:

  1. http://thuvienhoasen.org/p15a975/111-kinh-bat-doan-anupada-sutta
  2. http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/mn/
  3. http://lirs.ru/lib/sutra/The_Middle_Length_Discourses(Majjhima_Nikaya), Nanamoli, Bodhi, 1995.pdf
  4. https://theravada.vn/111-kinh-bat-doan-anupada-sutta-kinh-trung-bo/